TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lý Hoàng K, sinh ngày 15/3/1997 tại V, Sóc Trăng; Nơi cư trú: ấp NP, xã VT, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: làm công; Trình độ văn hoá (học vấn) 7/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý S (s) và bà Châu Thị D (s); Tiền sự: không; Tiền án: 01 lần vào ngày 28/11/2014 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án là ngày 28/11/2014. Bị bắt tạm giam ngày 15 tháng 10 năm 2019; (có mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn B là trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng; (có mặt)
- Bị hại: Bà Danh Thị Thanh T, sinh năm 2004; (có mặt)
- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Sơn Thị Th, sinh năm 1973 – là mẹ của bị hại; Cùng nơi cư trú: ấp NP, xã VT, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; (có mặt)
- Người làm chứng:
1. Ông Danh H, sinh năm 1964; Nơi cư trú: ấp NP, xã VT, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; (có mặt)
2. Bà Châu Thị D, sinh năm 1967; Nơi cư trú: ấp NP, xã VT, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; (có mặt)
- Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Sơn Ch – Nguyên cán bộ đài truyền thanh thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lý Hoàng K và Danh Thị Thanh T là người cùng ấp NP, xã VT, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, quen biết nhau trên mạng xã hội từ năm 2016. Đến khoảng tháng 10 năm 2017, Lý Hoàng K hẹn với Danh Thị Thanh T đi chơi, sau đó dẫn T về nhà của mình, hai người sống công khai như vợ chồng, cha mẹ đôi bên đều biết. Hai người đã quan hệ tình dục nhiều lần dẫn đến Danh Thị Thanh T có mang thai và sinh con đặt tên Danh Hoài Ph sinh ngày 13/7/2018. Sau khi T sinh xong thì mẹ ruột của T là bà Sơn Thị Th đưa T và cháu Ph về nhà để nuôi dưỡng nên K cũng về nhà bà Th sinh sống. Quá trình chung sống thì giữa K và gia đình bên vợ có xảy ra mâu thuẫn nên K về nhà của cha mẹ ruột của mình sinh sống. Ngày 07/6/2019 Danh Hoài Ph bị bệnh nằm viện tại Bệnh viện đa khoa thị xã V nên K lên thăm và nuôi con, nhưng khi Ph được xuất viện thì K đưa con về nhà để nuôi dưỡng, bà Th cho rằng K muốn bắt cháu Ph nên làm đơn tố giác Lý Hoàng K có hành vi giao cấu với con bà là Danh Thị Thanh T chưa đủ 16 tuổi.
Qua kiểm tra xác minh Lý Hoàng K thừa nhận có quan hệ tình dục với Danh Thị Thanh T sinh ngày 14/4/2004 nhiều lần dẫn đến mang thai.
Tại kết luận giám định số 3766/C09B ngày 30-9-2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện khoa học hình sự kết luận: Lý Hoàng K là cha ruột của Danh Hoài Ph, với xác suất 99.9994%.
Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS.VC ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã V truy tố Lý Hoàng K về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a, d Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Lý Hoàng K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
Áp dụng điểm a, d Khoản 2 Điều 145; điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo K, đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù.
Xem xét miễn án phí cho bị cáo theo quy định pháp luật.
- Tại phiên tòa, trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh, thống nhất về các điều luật áp dụng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức thấp nhất như kiểm sát viên đề nghị.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu về trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi của bị cáo Lý Hoàng K trong khoảng thời gian từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 6 năm 2019 đã nhiều lần quan hệ tình dục với Danh Thị Thanh T, sinh ngày 14 tháng 4 năm 2004, T có độ tuổi từ 13 đến dưới 16 tuổi, dẫn đến T mang thai và đã sinh con cháu Danh Hoài Ph ngày 13/7/2018. Tại kết luận giám định số 3766/C09B ngày 30/9/2019 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Lý Hoàng K là cha ruột của Danh Hoài Ph với xác xuất là 99,9994%. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Lý Hoàng K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo điểm a, d Khoản 2 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm, vì vào ngày 28/11/2014 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án là ngày 28/11/2014, nhưng bị cáo chưa thi hành khoản án phí, nên đến nay chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Cần áp dụng điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xem xét tăng nặng một phần hình phạt đối với bị cáo. Xét về nhân thân, bị cáo không có tiền sự, nhưng có 01 tiền án. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo là người dân tộc Khmer; Bị cáo đã tự khai ra những lần phạm tội trước đó. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nên áp dụng để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người đại diện không yêu cầu. Nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Bị cáo có đơn xin miễn án phí do là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
[5] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên, của trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ. Về hình phạt, cần xử phạt bị cáo ở mức trung bình như kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm a, d Khoản 2 Điều 145; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
- Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố:
Bị cáo Lý Hoàng K phạm tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.
1. Xử phạt bị cáo Lý Hoàng K 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15 tháng 10 năm 2019;
2. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.
3. Về án phí: Áp dụng điểm điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Hoàng K.
Báo cho bị cáo; bị hại; người đại diện được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a , 7b và 9 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án Dân sự năm 2014.
Bản án về tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 53/2019/HS-ST
Số hiệu: | 53/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về