Bản án về tội giả mạo trong công tác số 18/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI GIẢ MẠO TRONG CÔNG TÁC

Trong ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại Phòng xét xử B - Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 185/2023/TLST – HS ngày 15/09/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 09 năm 2023, Thông báo mở lại phiên tòa số 656/TB-TA ngày 20/10/2023, quyết định hoãn phiên tòa số 362/2023/HSST-QĐ ngày 06/11/2023, Thông báo mở lại phiên tòa số 795/TB-TA ngày 04/12/2023, quyết định hoãn phiên tòa số 403/2023/HSST-QĐ ngày 29/12/2023 đối với bị cáo:

Lê Đức Q, sinh năm 1983, tại Khánh Hòa. (có mặt) Nơi cư trú: khu phố H, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp:Công chức tư pháp- hộ tịch Ủy ban nhân dân xã L; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Khôi, sinh năm 1950 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Tiếp, sinh năm 1958, gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Trần Thị Minh Tâm, sinh năm 1995, có 02 con, lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2023. Tiền án, tiền sự: không; Ngày 01/02/2023 bị khởi tố về tội “ Giả mạo trong công tác” và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: (vắng mặt)

1/ y ban nhân dân xã L Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H, chức vụ: Chủ tịch xã. Địa chỉ: ấp 1, xã L, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

2/ Ông Đinh Kim T, sinh năm 1991 Nai.

Địa chỉ: 42/C2 ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng

3/ Ông Phạm Nhật K1, sinh năm 1981 Địa chỉ: khu phố H, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

4/ Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1982 Địa chỉ: tổ 4, khu phố H 2, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai

5/ Bà Phan Cao Thanh H1, sinh năm 1995 Địa chỉ: tổ 4, ấp 3, xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

6/ Ông Trần Văn Th, sinh năm 1967 Địa chỉ: 585/5B, khu phố 2, phường A, quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh

7/ Bà Lâm Thị C, sinh năm 1973 HKTT: ấp Trảng Sắn, xã V, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương Địa chỉ: số 14, tổ 13, khu phố 3, Phú Lợi, TP.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

8/ Ông Phan Văn H, sinh năm 1999 Địa chỉ: thôn 10/3, xã E, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.

9/ Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1989 Địa chỉ: số 465, N, khu phố Bình Đường 4, phường A, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

10/ Ông Phan Thành P, sinh năm 1984 Địa chỉ: số 1027/27, N, khu phố 3, phường C, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

11/ Bà Lê Thị N, sinh năm 1990 Thường trú: ấp Sen Thượng 2, xã S, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

Chỗ ở hiện nay: số 486, đường N, khu phố Bình Đường 1, phường A, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

12/ Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1987 Địa chỉ: ấp 2, xã P, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

13/ Bà Nguyễn Thị Hồng V, sinh năm 1978 Địa chỉ: số 46, đường 9, khu phố 4, phường T, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Đức Q là công chức Tư pháp – Hộ tịch Ủy ban nhân dân xã Phú Ngọc, được Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai điều động đến nhận công tác tại Ủy ban nhân dân xã L và giữ nhiệm vụ công chức Tư pháp – Hộ tịch kể từ ngày 02/01/2021 theo Quyết định số 4930/QĐ-UBND ngày 23/12/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Định Quán. Trong Quyết định, căn cứ theo quy định tại khoản 6, Điều 2, Chương I của Thông tư số 13/2019/TT- BNV ngày 06/11/2019 của Bộ Nội vụ thì nhiệm vụ của Lê Đức Q tại Ủy ban nhân dân xã L gồm:

- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Tư pháp và hộ tịch trên địa bàn theo quy định của pháp luật.

- Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau:

+ Thực hiện nhiệm vụ công tác tư pháp, hộ tịch, chứng thực, chứng nhận và theo dõi về Q tịch, nuôi con nuôi,… - Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.

Tại UBND xã L thì Q được phân công nhiệm vụ cụ thể theo quyết định phân công nhiệm vụ cho công chức xã nhiệm kỳ 2021 – 2026 số 1118/QĐ- UBND ngày 05/10/2021 trong đó có việc “ thực hiện chứng thực theo thẩm quyền đối với các công việc thuộc nhiệm vụ được pháp luật quy định”.

Trong quá trình công tác, lợi dụng chức trách, nhiệm vụ được giao, vào tháng 03 năm 2022, Lê Đức Q đã có hành vi giả mạo chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã L để chứng thực 04 hợp đồng mua bán xe, cụ thể như sau:

Vào đầu tháng 03/2022, anh Đinh Kim T – sinh năm 1991, cư trú tại ấp D, xã G, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai có liên hệ nhờ Q chứng thực 02 hợp đồng mua bán xe mô tô thì Q đồng ý. Sau đó, T đến Ủy ban nhân dân xã L đưa cho Q 02 hợp đồng mua bán xe mô tô. Hợp đồng thứ nhất đã có sẵn chữ ký bên mua, chữ ký bên bán còn hợp đồng thứ hai chưa có chữ ký bên mua, chữ ký bên bán và đều không có mặt bên mua, bên bán. Do biết ông Nguyễn Đoàn V - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã L sẽ không ký vào 02 hợp đồng này vì không có mặt bên mua và bên bán nên Q đã giả mạo chữ ký của ông V ký vào lời chứng thực xác nhận của 02 hợp đồng mua bán trên. Sau khi giả mạo chữ ký của ông V, Q lấy số khống rồi mang 02 hợp đồng này qua bộ phận văn thư tự đóng mộc của Ủy ban nhân dân xã L. Do đã giả mạo chữ ký của ông V và lấy số khống nên Q đã đưa lại 02 hợp đồng mua bán xe đã được chứng thực cho T mà không lưu hồ sơ. Sau khi nhận lại 02 hợp đồng, anh T đã cho Q số tiền là 200.000 đồng.

Vào giữa tháng 03 năm 2022, ông Phạm Nhật K1 – sinh năm 1981, cư trú tại khu phố H, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán có liên hệ nhờ Q chứng thực 01 hợp đồng mua bán xe và Q đồng ý. Sau đó, ông K1 trực tiếp đưa hợp đồng cho Q, hợp đồng đã có sẵn chữ ký bên mua, bên bán và không có mặt bên mua, bên bán. Sau khi nhận hợp đồng từ anh K1, Q đã giả mạo chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V ký vào lời chứng thực xác nhận hợp đồng mua bán và lấy số khống rồi mang qua văn thư tự đóng mộc của Ủy ban nhân dân xã L. Do đã giả mạo chữ ký của ông V và lấy số khống nên Q đã đưa lại hợp đồng mua bán xe đã được chứng thực cho anh K1 mà không lưu lại hồ sơ. Sau khi nhận lại hợp đồng, anh K1 đã cho Q số tiền là 100.000 đồng.

Vào cuối tháng 03 năm 2022, bà Nguyễn Thị L – sinh năm 1982, là chủ cửa hàng mua bán xe máy “Phong” tại tổ 4, khu phố H 2, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán có liên hệ nhờ Q chứng thực 01 hợp đồng mua bán xe và được Q đồng ý. Sau đó, bà L trực tiếp đưa hợp đồng cho Q, hợp đồng đã có sẵn chữ ký bên mua, bên bán và không có mặt bên mua, bên bán. Sau khi nhận hợp đồng từ bà L, Q đã giả mạo chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V, ký vào lời chứng thực xác nhận hợp đồng mua bán và lấy số khống rồi mang hợp đồng qua văn thư tự đóng mộc của Ủy ban nhân dân xã L. Do đã giả mạo chữ ký, lấy số khống nên sau khi ký và đóng mộc, Q đã đưa lại hợp đồng cho bà L mà không lưu lại hồ sơ. Sau khi nhận lại hợp đồng, bà L cho Q số tiền 100.000 đồng.

Vào các ngày 29/4/2022, 18/4/2022, 02/6/2022 và 14/4/2022, Công an Thành phố Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh và Phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Bình Dương đã có các Công văn gửi Ủy ban nhân dân xã L về việc xác minh các hợp đồng mua bán xe mô tô: biển số 60G1-X, biển số 60B3-X, biển số 61C1- 647.87 và trực tiếp đến Ủy ban nhân dân xã L xác minh hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 61B1-458.19 do nghi ngờ hợp đồng. Qua làm việc với lãnh đạo UBND xã L ngày 09/6/2022, ngày 17/6/2022 và biên bản xác minh ngày 17/6/2022 của Phòng cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Bình Dương, Lê Đức Q không thừa nhận hành vi giả mạo chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã L. Ngày 24/6/2022, Ủy ban nhân dân xã L đã có văn bản báo cáo số 116/BC-UBND nội dung có dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với Lê Đức Q và đề nghị Cơ quan điều tra xác minh, xử lý.

Quá trình điều tra, xác minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Định Quán đã tiến hành thu thập được 03/04 lời chứng thức xác nhận hợp đồng mua bán xe mô tô. Cụ thể là:

- 01 lời chứng thực số: 833, quyển số: 01-SCT/HĐ,GD ngày 14/3/2022, xác nhận hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 60B3-X;

- 01 lời chứng thực số: 852, quyển số: 01/2022-SCT/HĐ,GD ngày 23/3/2022, xác nhận hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 60G-X;

- 01 lời chứng thực số: 760, quyển số: 01/2022-SCT/HĐ,GD ngày 08/3/2022, xác nhận hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 61B1-458.19.

- Đối với lời chứng thực hợp đồng mua bán xe mô tô 61C1-647.87, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do ông Phan Thành Ph – sinh năm 1984, mua tại cửa hàng xe máy “Thanh Đoàn” ở địa chỉ số 465 đường N, phường A, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương do ông Nguyễn Thanh Đoàn – sinh năm 1989 làm chủ. Khi ông Ph mua xe, ông Đoàn cam kết làm các thủ tục chứng thực và rút hồ sơ gốc của xe mô tô trên cho ông Ph. Sau khi nhận hồ sơ, ông Ph đến Công an Thành phố Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh làm thủ tục sang tên nhưng không làm được nên Công an Thành phố Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh đã trả lại toàn bộ hồ sơ trên cho ông Ph. Sau đó, ông Ph đã đến cửa hàng trả lại xe cùng toàn bộ hồ sơ cho ông Đoàn rồi nhận lại tiền. Qua làm việc với ông Nguyễn Thanh Đoàn, ông Đoàn khai sau khi ông Ph trả lại hồ sơ và xe, ông Đoàn đã hủy bỏ lời chứng hợp đồng mua bán xe mô tô trên. Do đó, Cơ quan điều không thu hồi được. Quá trình điều tra, Lê Đức Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân, đồng thời đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính 400.000 đồng.

* Vật chứng vụ án:

- Các bản chính hợp đồng mua bán xe mô tô: biển số 60G1-X, biển số 60B3-X và biển số 61B1-458.19, sau khi đã hoàn thành giám định, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Định Quán đã tiến hành trả lại cho Công an Thành phố Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh, Công an Quận 12 – Thành phố Hồ Chí Minh và Phòng Cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Bình Dương.

- Số tiền 400.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 2524/KL-KTHS ngày 27/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Chữ ký mang tên Nguyễn Đoàn V trên các tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A1, A2) so với chữ ký mang tên Nguyễn Đoàn V trên các tài liệu nêu ở phần mẫu so sánh (ký hiệu M1 đến M10) không phải do cùng một người ký ra.

Bản kết luận giám định số 558/KL-KTHS ngày 03/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Chữ ký mang tên Nguyễn Đoàn V trên các tài liệu nêu ở phần mẫu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký mang tên Nguyễn Đoàn V trên các tài liệu nêu ở phần mẫu so sánh (ký hiệu M1 đến M10) không phải do cùng một người ký ra.

Tại cáo trạng số 80/CT-VKSĐQ ngày 19 tháng 06 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán đã truy tố bị cáo Lê Đức Q về tội “Giả mạo trong công tác” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 359 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị áp điểm c, khoản 1, Điều 359; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1, Điều 52 của Bộ luật Hình sự và đề nghị xử phạt: Bị cáo Lê Đức Q từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo Q thừa nhận hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Định Quán, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tuy nhiên, việc xem xét đánh giá toàn diện hợp đồng mua bán xe thì điều tra viên, kiểm sát viên không tiến hành đối chất làm rõ khi tài liệu phân tích còn mâu thuẫn là còn thiếu sót khi thu thập chứng cứ.

[2] Về tội danh:

Từ ngày 02/01/2021, Lê Đức Q là công chức Tư pháp – Hộ tịch Ủy ban nhân dân xã L. Trong quá trình công tác, vào tháng 03 năm 2022, Lê Đức Q đã có hành vi giả mạo chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V - Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã L để chứng thực 03 hợp đồng mua bán xe mô tô gồm: 01 lời chứng thực số 833, quyển số 01-SCT/HĐ,GD ngày 14/3/2022 để chứng thực hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 60G-X; 01 lời chứng thực số 852, quyển số 01/2022-SCT/HĐ,GD ngày 23/3/2022 để chứng thực hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 60B3-X và 01 lời chứng thực số 760, quyển số 01/2022-SCT/HĐ,GD ngày 08/3/2022 để chứng thực hợp đồng mua bán xe mô tô biển số 61B1-458.19.

Qua đó, Q đã thu lợi bất chính 400.000đồng.

Tại phiên tòa hôm nay do những người có quyền lợi liên quan vắng mặt nên không đối chất làm rõ được, không xác định hợp đồng bên bán bên mua là ai đã giả chữ ký, làm ra hợp đồng này, do những người môi giới đều không thừa nhận là do họ ký vào. Đồng thời chưa làm rõ được ý thức chủ quan của những người này khi đưa hợp đồng cho Q đã biết rõ đây là hợp đồng giả hay không? Tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161 ngày 15/9/2023 có ghi bị cáo Q bị đưa ra xét xử về tội “ Giả mạo trong công tác” theo điểm c, khoản 2, Điều 359 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi của Q giả chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V – Phó chủ tịch UBND xã L ký vào mục “ Người thực hiện chứng thực chữ ký” cấu thành tội “ Giả mạo trong công tác” với tình tiết định khung hình phạt là “ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 359 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức, làm mất uy tín của cơ quan tổ chức, đã tác động vào giấy tờ, tài liệu, chữ ký bị sai lệch không đúng với thực tế khách quan. Bị cáo đã cố ý giả chữ ký của ông Nguyễn Đoàn V – Phó chủ tịch UBND xã L là người có chức vụ quyền hạn với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi giả chữ ký, lấy số khống ghi vào lời chứng thực giả, tự đóng mộc của UBND xã L đã làm cho giấy tờ bị sai lệch, không phản ánh đúng sự thật khách quan. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử với mức án vừa đủ nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi của bị cáo gây ra, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 và đã tự nguyện giao nộp số tiền thu lợi bất chính là 400.000đ. Bên cạnh đó năm 2021 được tặng danh hiệu lao động tiên tiến, năm 2022 Q được UBND xã L tặng giấy khen do có nhiều thành tích xuất sắc trong quá trình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao xã L, phong trào thi đua yêu nước năm 2021, trong công tác tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ năm 2022. Q phạm tội lần đầu, là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình đang nuôi con còn nhỏ. Đồng thời có cha ruột là ông Lê Văn Khôi được Bộ trưởng bộ văn hóa thể thao và du lịch tặng kỷ niêm chương vì sự nghiệp văn hóa thể thao, được Bộ tư pháp tặng bằng khen là hội thẩm nhân dân đã có thành tích xuất sắc trong công tác năm 2000, được Ban chấp hành đảng bộ tỉnh Đồng Nai tặng bằng khen và được Ban chấp hành đảng bộ huyện Định Quán, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em tỉnh Đồng Nai tặng giấy khen. Tại văn bản số 195/UBND ngày 29/9/2023 UBND xã L có văn bản về việc xem xét giảm nhẹ hình phạt thấp nhất đối với ông Lê Đức Q. Những tình tiết giảm nhẹ này quy định tại khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cho bị cáo được hưởng mức đầu khung hình phạt cũng đủ răn đe phòng ngừa chung, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “ Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: đã nhận định đánh giá như trên. [6] Về vật chứng vụ án:

- Tiền mặt: 400.000 đồng, là tiền thu lợi bất chính nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo biên lai thu tiền số 0000729 ngày 21/6/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Định Quán.

[7] Về vấn đề khác:

Đối với những người đứng tên bên mua và bên bán 04 xe mô tô trên, quá trình điều tra xác định họ không ký vào các hợp đồng mua bán xe trên nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Ngày 16/8/2023 Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung lần 01 số 21/2023/HSST –QĐ để điều tra bổ sung làm rõ hành vi làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 359 Bộ luật hình sự đối với Q và làm rõ hành vi của các chủ cửa hàng xe biết rõ không có mặt bên bán sẽ không chứng thực được hợp đồng nên nhờ người khác làm dịch vụ hợp đồng. Sau khi hợp đồng được chứng thực xong thì các chủ cửa hàng xe đã sử dụng hợp đồng này để hợp thức hóa xe không chính chủ nhằm hưởng lợi thì hành vi này có dấu hiệu tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS và làm rõ vai trò môi giới của các đối tượng L, T, K1 xử lý theo quy định pháp luật. Ngày 08/9/2023 Hội đồng xét xử đã trả hồ sơ điều tra bổ sung lần 02 tại phiên tòa số 31/2023/ HSST –QĐ cũng về hành vi như trên. Tuy nhiên Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán có Công văn số 195/CV-VKS- HS ngày 18/8/2023, Công văn số 222/CV-VKS-HS ngày 14/9/2023 giữ nguyên quan điểm truy tố theo điểm c, khoản 1, Điều 359 BLHS về tình tiết định khung “Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn” đối với Q và cho rằng các hợp đồng mua bán xe thì các đối tượng đưa cho Q không phải là tài liệu của Cơ quan Nhà nước nên không thể xử lý về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan Nhà nước quy định tại Điều 341 BLHS. Các chủ cửa hàng xe không quen Q, không nhờ Q chứng thực hợp đồng nên không đồng phạm với Q về tội giả mạo trong công tác cũng như vi phạm vào “ tội làm giả con dấu tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điểu 341 Bộ luật hình sự.

Xét thấy hành vi của bị cáo Q lợi dụng chức trách nhiệm vụ được giao, có điều kiện để tiếp xúc với các giấy tờ tài liệu trong phạm vi chức trách nhiệm vụ được giao thì Q buộc phải biết và phải kiểm tra chữ ký, sự có mặt của các bên trước khi chứng thực nhằm đảm bảo tính trung thực, chính xác, khách quan khi thực hiện chứng thực hợp đồng nhưng Q lại thỏa thuận chụp hợp đồng mẫu gửi cho ông T, bà L và ông K1 đánh máy sẵn nội dung hợp đồng, trong đó có cả phần lời chứng của Phó chủ tịch UBND xã, áp vào từng vụ việc mua bán cụ thể. Sau khi nhận 04 hợp đồng thì Q giả chữ ký của ông V – Phó chủ tịch, lấy số khống ghi vào lời chứng giả, tự đóng dấu hợp đồng, không lưu trữ hợp đồng theo quy định. Khi hoàn tất Q đã cấp lại toàn bộ hợp đồng cho những người quen nhờ và hưởng số tiền thu lợi bất chính là 400.000 đồng/04 hợp đồng. Tại phiên Tòa, Q thừa nhận do xe không chính chủ khi tham gia giao thông, đồng thời không tìm được người bán có tên giấy đăng ký để ký hợp đồng mua bán. Người mua khi mua xe từ hiệu cầm đồ và Cửa hàng xe cũ, do các chủ cửa hàng cam đoan lo hết hồ sơ mua bán nên để hợp thức hóa hồ sơ mà ông T, bà L, ông K1 đã đưa cho Q 04 hợp đồng mua bán xe, nghĩ là bên bán bên mua không đến Ủy ban xã ký hợp đồng thì ông V sẽ không ký chứng thực chữ ký của các bên. Vì tin tưởng những người đưa hợp đồng là những mối quan hệ xã hội bên ngoài, đồng thời cũng nghĩ đơn giản là để hợp thức hóa việc sang tên đổi chủ. Vì vậy Q đã thực hiện hành vi giả chữ ký. Số tiền ghi trong hợp đồng và số tiền thỏa thuận giữa người mua và chủ salon xe không trùng khớp, nội dung chứng thực hợp đồng không phản ánh đúng bản chất sự việc mua bán. Bị cáo đã thực hiện hành vi 03 lần với 04 hợp đồng và hành vi đã hoàn tất sau khi cấp xong 04 hợp đồng. Sự việc bị phát hiện là do Công an Thành phố Thủ Đức và Công an tỉnh Bình Dương nghi ngờ hợp đồng mua bán xe là giả khi nhận hồ sơ đăng ký. Lời khai của ông T, bà L, ông K1 cho rằng nhận hợp đồng mua bán xe từ các anh em ngoài xã hội đưa sẵn, có sẵn chữ ký bên bán bên mua, ai ký vào thì không rõ nhưng không phải chữ ký của các đối tượng là mâu thuẫn với lời khai của Q nhưng không được đối chất làm rõ. Vì Q cho rằng đã chụp sẵn mẫu hợp đồng và gửi zalo cho các đối tượng đánh máy sẵn, do đó các đối tượng là người trực tiếp được gửi mẫu đem đi đánh máy vi tính và trực tiếp đưa hợp đồng đã được đánh máy sẵn có chữ ký của bên bán bên mua thì chính các đối tượng phải biết 04 hợp đồng này ở đâu mà có, ai đánh máy và ai đã ký. Số tiền 400.000đồng đưa cho Q là tiền của ai, các đối tượng làm dịch vụ giấy tờ có mối liên hệ như thế nào với chủ tiệm cầm đồ, cửa hàng xe. Sau khi hoàn tất chứng thực hợp đồng thì những người môi giới này được hưởng lợi ích bao nhiêu, ai chi trả. Vì sao hợp đồng sau khi được chứng thực đã đến được tay các chủ cửa hàng và được đem đi làm thủ tục sang tên xe, đúng như lời khai của những người mua xe trực tiếp từ cửa hàng cho rằng cửa hàng cam đoan lo toàn bộ hồ sơ gốc nên họ mới tin tưởng mua xe, giao tiền. Như vậy rõ ràng chữ ký bên bán bên mua trong 3 hợp đồng mua bán xe đều không phải của người bán người mua, phù hợp với lời khai của bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chữ ký chứng thực cũng không phải là của ông Nguyễn Đoàn V – Phó chủ tịch, phù hợp với kết luận giám định và lời khai của bị cáo nên 03 hợp đồng mua bán xe này có dấu hiệu là hợp đồng giả (làm để hợp thức hóa xe). Do đó, phải xem xét đánh giá toàn diện hợp đồng.

Các chủ cửa hàng xe đều nhận thức biết được do người đứng tên trên giấy đăng ký xe không có mặt ở địa phương nơi cư trú nên không thể ký tên vào hợp đồng bên bán. Vì vậy thông qua dịch vụ môi giới làm giả hợp đồng rồi đưa cho Q chứng thực nhằm mục đích hợp thức hóa xe không chính chủ. Khi nhận được hợp đồng đã sử dụng các hợp đồng này nộp cho Công an Thành phố Thủ Đức, Công an quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh và Phòng cảnh sát giao thông – Công an tỉnh Bình Dương để chuyển tên đăng ký xe thì bị phát hiện. Cụ thể: T nhờ chứng thực 02 hợp đồng, hợp đồng thứ nhất là hợp đồng mua bán xe chứng thực số 760 ngày 08/3/2022 xe mô tô hiệu SH mode biển số 60B1-458.19 giữa bà Lâm Thị Chính và ông Phan Văn H, hợp đồng để trống, không có chữ ký bên bán bên mua. Chiếc xe này bà Chính bị mất trộm. Công an nghi ngờ đã phát hiện ra hợp đồng giả và thu hồi xe trả lại cho bà Chính. Hợp đồng thứ 2 xe mô tô SH mode biển số 60C1-647.87 xe này cửa hàng xe Thanh Đoàn đã bán lại cho ông Phan Thành Ph, sau khi bị Công an phát hiện biết không làm được giấy tờ nên chủ cửa hàng đã trả lại tiền và nhận lại xe, hợp đồng đã bị các đối tượng hủy bỏ nên công an không thu giữ được hợp đồng mua bán. Hợp đồng thứ 3 là K1 nhờ chứng thực số 833 ngày 14/3/2022 xe hiệu Honda Air Blade biển số 60B3-X giữa bà Phan Cao Thanh Hoa và ông Trần Văn Thêm. Chiếc xe này ông Thêm mua tại 01 cửa hàng nằm trên huyện Hóc Môn. Hợp đồng thứ 4 bà Nguyễn Thị L –chủ cửa hàng xe máy Phong nhờ chứng thực hợp đồng số 852 ngày 23/3/2022 xe Honda Vario 150 biển số 60G1-X giữa ông Nguyễn Văn Hận và bà Nguyễn Thị Hồng Vy. Chiếc xe này Vy mua ở cửa hàng xe máy Anh Thư –do bà Lê Thị Nga làm chủ. Như vậy chủ cửa hàng xe máy Thanh Đoàn (ông Nguyễn Thanh Đoàn), chủ cửa hàng xe nằm trên huyện Hóc Môn, chủ cửa hàng xe máy Anh Thư (bà Lê Thị Nga) đã trực tiếp sử dụng các hợp đồng giả này để làm giấy tờ hợp thức hóa các xe không chính chủ nhằm đưa các xe này vào lưu thông, thông qua các đối tượng môi giới là T, K1, L đã có hành vi giúp sức hoàn tất giấy tờ. Như vậy hành vi của các chủ cửa hàng xe có dấu hiệu của tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS, còn các đối tượng môi giới có dấu hiệu hành vi giúp sức với vai trò đồng phạm.

Vì vậy kiến nghị đến Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai xem xét, xét xử bị cáo Lê Đức Q theo quy định của pháp luật hủy bản án sơ thẩm để điều tra truy tố làm rõ về hành vi của bị cáo về việc làm, cấp giấy tờ giả với số lượng từ 02 giấy tờ giả đến 05 giấy tờ giả quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 359 Bộ luật hình sự và làm rõ hành vi của các chủ cửa hàng xe có dấu hiệu của tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 341 BLHS, còn các đối tượng môi giới có hành vi giúp sức như trên làm rõ vai trò đồng phạm.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Xét quan điểm đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: điểm c, khoản 1, Điều 359; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38; điểm g, khoản 1, Điều 52; Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự trong xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm khác về chức vụ.

Áp dụng: Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đức Q phạm tội “ Giả mạo trong công tác”.

1.1 Xử phạt bị cáo Lê Đức Q 01(một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Vật chứng: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000729 ngày 21/6/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Định Quán.

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a, khoản 1, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

3. Về án phí: Bị cáo Lê Đức Q phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng UBND xã L, ông T, ông K1, bà L, bà Hoa, ông Thêm, bà Chính, ông H, ông Đoàn, ông Ph, bà Nga, ông Hận và bà Vy có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giả mạo trong công tác số 18/2024/HS-ST

Số hiệu:18/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về