Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 704/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BN ÁN 704/2022/HS-PT NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 362/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 04 năm 2022 đối với bị cáo Trọng Văn H phạm tội “Giết người” và các bị cáo khác phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” do bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng có kháng cáo.

* Các bị cáo bị kháng cáo và có kháng cáo:

1. Trọng Văn H, sinh ngày 01/11/1996 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Nội T, xã An H, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trọng Văn T1và bà Nguyễn Thị H1; có con là Phạm Thị Trâm A, sinh ngày 12/7/2021; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 tạm giam; có mặt.

2. Nguyễn Duy C, sinh ngày 17/4/1998 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Lê L1, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy B1 và bà Lương Thị T3; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 tạm giam; có mặt.

3. Hoàng Văn B, sinh ngày 01/4/2001 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Phương T32, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn B3 và bà Phạm Thị T6; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 tạm giam; có mặt.

4. Phạm Duy H7, sinh ngày 28/6/2003 tại Hải Phòng. ĐKHKTT: Thôn An Lãng, xã An H, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nơi ở: Thôn Lê L1, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy T6(đã chết) và bà Phạm Thị C; chưa có vợ, con; tiền án: Bản án số 108/2021/HS-PT ngày 09/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 36 tháng tù về tội Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; tiền sự: Ngày 29/12/2020, Công an huyện Vĩnh B xử phạt hành chính về hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự người khác; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 tạm giam; có mặt.

5. Phạm Trung N, sinh ngày 09/6/1999 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn Trúc Hiệp, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Trung C và bà Nguyễn Thị Y; có vợ là Nguyễn Thị H1 và có 01 con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 tạm giam; có mặt.

6. Nguyễn Đức N5, sinh ngày 03/6/2005 tại Hải Phòng (tính đến thời điểm phạm tội là 16 tuổi 01 tháng). Nơi cư trú: Thôn Bắc T6 2, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức Đ và bà Nguyễn Thị N1; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

7. Phạm Công T7, sinh ngày 02/01/2005 tại Hải Phòng (tính đến thời điểm phạm tội là 16 tuổi 06 tháng 01 ngày), nơi cư trú: Thôn Phương T32, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Công T9 và bà Đào Thị D3; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

8. Nguyễn Duy T10, sinh ngày 03/6/2004 tại Hải Phòng (tính đến thời điểm phạm tội là 17 tuổi 01 tháng), nơi cư trú: Thôn G, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Duy N6 và bà Trần Thị L3; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

9. Nguyễn Trọng C4, sinh ngày 29/5/2004 tại Hải Phòng (tính đến thời điểm phạm tội là 17 tuổi 01 tháng 04 ngày), nơi cư trú: Thôn An B, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng N6và bà Nguyễn Thị X; chưa có vợ, con; tiền án; tiền sự: không; tạm giữ từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021 thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trọng Văn H: Luật sư Lê Bá C – Công ty luật C.M.A, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức N5 và Nguyễn Trọng C4: Ông Trần Minh N và bà Trần Thị T, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý thành phố Hải Phòng; ông N có mặt, bà T có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Duy T10 và Phạm Công T7: Nguyễn Thị Thu T và bà Trần Thị T, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý thành phố Hải Phòng; bà T có mặt, bà T có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Duy T10: Ông Nguyễn Duy N6, nơi cư trú: Thôn G, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là bố đẻ của bị cáo, có mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Công T7: Bà Đào Thị D3, nơi cư trú: Thôn Phương T32, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là mẹ đẻ của bị cáo, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Đức N5: Ông Vũ Đăng N nơi cư trú: Thôn Bắc T6 2, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là bác ruột của bị cáo và bà Nguyễn Thị N1 là mẹ đẻ của bị cáo, có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Trọng C4: Ông Nguyễn Trọng N, nơi cư trú: Thôn An B, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là bố đẻ của bị cáo, có mặt.

-Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Nguyễn Thị H1, nơi cư trú: Đội 12, thôn Lô Đ, xã Vĩnh L, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là mẹ đẻ của bị hạị, vắng mặt.

- Người đại diện theo ủy quyền về phần dân sự của bị hại: Ông Trần Tăng K, nơi cư trú: Thôn Lô Đ, xã Vĩnh L, huyện Vĩnh B, thành phố Hải Phòng là bác ruột của bị hại, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt n như sau:

m 2019, Trọng Văn H cho anh Trần Tăng Q vay số tiền 5.000.000 đồng với lãi suất 5.000 đồng/1.000.000 đồng/ngày nhưng anh Q không trả đủ nợ. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 03/7/2021, Trọng H cùng Nguyễn Duy C, Phạm Trung N đến quán bia ở khu vực chân cầu Quý C thuộc xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương nơi Vũ Văn V làm để uống bia. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, H nhận được tin nhắn của anH thách thức đến nhà lấy tiền. Khoảng hơn 20 giờ, Trọng H bảo C và Trung N về xã Vĩnh L để đòi tiền. Trên đường về, Trọng H lấy điện thoại của Cương gọi điện cho Hoàng Văn B bảo gọi thêm người đi đến xã Vĩnh L đòi tiền. Biền rủ Phạm Duy H7, Nguyễn Đức N5, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4, Phạm Công T7, Nguyễn Huy H và Nguyễn Viết K, sinh ngày 13/8/2005, Lê Huy Hoàng A, sinh ngày 05/7/2005, Tô Bá H , sinh ngày 05/9/2006 đi lấy tiền. Nhóm H , Cương, Trung Nam đi đến chợ G, xã Hùng T4, huyện Vĩnh B thì gặp nhóm Biền nên hai nhóm quay về quán cắt tóc của Cương ở thôn Lê L1, xã Hiệp H2, huyện Vĩnh B lấy hung khí. Tại đây, Cương lấy 01 tuýp sắt vát nhọn 01 đầu dài khoảng 2m đưa cho Đức N1 cầm. Tới lấy 01 con dao mèo dài khoảng 60 cm. Trung N về nhà lấy 01 tuýp sắt đầu gắn dao bầu dài khoảng 1,2 m, 01 tuýp sắt đầu gắn kiếm dài khoảng 80 cm còn Bá H về nhà lấy 01 tuýp sắt đầu gắn dao bầu dài khoảng 1m. Cả nhóm đi đến khu vực cầu S, xã Vĩnh L thì dừng lại. Trọng H điện thoại cho anh Q và hẹn gặp tại nhà Q. Lúc này, Vũ Văn Việt điện thoại cho Cương hỏi địa chỉ rồi đi xe mô tô đến cầu Sắt. Biết nhóm H đi đòi nợ, Việt chở Trọng H và cùng các đối tượng khác đi đến nhà anh Q. Khi đến nhà, Đức N1 để tuýp sắt ở khu vực gần cổng. H đạp cổng đi vào nhà thì Trung Nam, Tới, Bá H cầm hung khí và những đối tượng khác đi theo sau. H chửi, đấm vào mặt anh Q thì Q lấy dao xông đến chém H nhưng không trúng. Cả nhóm cầm hung khí xông vào nên Q bỏ chạy ra sau vườn. Lúc này, anh Trần Q V (em trai anh Q ) vào can ngăn và ngồi ở bàn uống nước. Trung Nam cầm tuýp sắt gắn kiếm dơ lên chửi bới và đập xuống bàn làm vỡ 01 chiếc cốc. Anh Q cầm dao quay lại thì Trọng H lấy chiếc điếu cày ở bàn uống nước cùng cả nhóm cầm hung khí xông đến nên Q lại chạy ra sau vườn. Anh V dùng tay ghì cổ H . H lấy điếu cày đánh vào người và gỡ tay Vinh ra. Lúc này, Cương hô: Công an đến đấy nên nhóm Trọng H bỏ chạy ra cổng. Khi Trọng H chuẩn bị lên xe mô tô đi về thì tay phải Anh V cầm cuốc, tay trái cầm dao xông đến định bổ cuốc vào người H. H cúi người né và nhặt 01 tuýp sắt vát nhọn 01 đầu ở dưới đất đâm một nhát theo hướng từ dưới lên trên, từ phải sang trái vào vùng lưng bên phải của Anh V rồi cùng cả nhóm ra về. Anh V bỏ chạy vào trong nhà được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa quốc tế huyện Vĩnh B nhưng đã tử vong.

Đến 22 giờ ngày 04/7/2021, Trọng Văn H đến Cơ quan Công an đầu thú. Cùng ngày 04/7/2021, Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Trung N, Phạm Duy H7, Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 đến Cơ quan Công an đầu thú. Nguyễn Duy C khi đầu thú đã giao nộp 01 điện thoại Samsung A12 màu đen.

Tiến hành khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ được một số dấu vết nghi máu; 01 thanh kim loại hình trụ tròn, một đầu quấn băng dính đen, một đầu có gắn lưỡi dao (dạng lưỡi dao bầu), thanh kim loại dài 110,5 cm, đường kính 2,1 cm, đoạn quấn băng dính đen dài 26 cm, lưỡi dao dài 24,5 cm, bản rộng nhất 6,5 cm, một lưỡi sắc, mũi dao nhọn; một số mảnh thanh tre và nhiều mảnh vỡ dạng gốm, sứ, nằm trong diện 3,2 m x 2,1 m.

Ngày 03/7 và 04/7/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh B đã thu giữ của anh Trần Tăng Q: 01 điện thoại di động Vsmart màu vàng đen; thu giữ của Phạm Công T7: 01 con dao cán gỗ, đầu nhọn, kích thước dài 60 cm, phần cán dao màu vàng dài 20 cm, bản rộng nhất của lưỡi dao dài 4,5 cm.

Kết luận giám định số 121/2021/GĐPY ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: nạn nhân Trần Quang V có tổ chức cơ dưới vết thương vùng lưng phải ngấm tụ máu, vết thương có chiều hướng từ dưới lên trên, từ phải sang trái, từ sau ra trước, thấu vào trong ổ bụng, làm đứt gần lìa cuống thận phải, chạm thủng mạc treo lớn, rãnh thương dài 14cm, ổ bụng chứa khoảng 1,5 lít máu loãng.

Các vết bầm tụ máu, xây xước da hình thành do va đập, cọ xát với vật tày gây nên. Vết rách thủng da vùng lưng phải có đặc điểm hình thành do vật nhọn đâm, chọc gây nên. Nguyên nhân chết: Nạn nhân chết do sốc mất máu cấp Tại Kết luận giám định số 110/GĐSH/2021 ngày 17/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Hai mẫu tạp chất màu nâu đỏ gửi giám định có máu người - là máu Trần Q Vinh.

Ti Cáo trạng số 05/CT-VKS-P2 ngày 22/12/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trọng Văn H về tội Giết người theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự. Truy tố các bị cáo Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Duy H7, Phạm Trung N, Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 về tội Gây rối trật tự công cộng theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự.

Ti bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trọng Văn H 20 (hai mươi) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, Điều 56, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Duy H7 mức án 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt 36 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại Bản án số 108/2021/HS-PT ngày 09/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 66 (sáu mươi sáu) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Duy C 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Bị cáo Hoàng Văn B 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Bị cáo Phạm Trung N 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 54; Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Đức N5 án 15 (mười lăm) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Phạm Công T7 15 (mười lăm) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Nguyễn Duy T10 15 (mười lăm) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Nguyễn Trọng C4 15 (mười lăm) tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Cm các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 đi khỏi nơi cư trú. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú được tính kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 đi chấp hành án phạt tù.

Ngoài ra bản án cón quyết định về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Phạm Duy H7, Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Nguyễn Trung Nam về tội “Gây rối trật tự công cộng”, các bị cáo không có kháng cáo .

- Ngày 05/4/2022 bà Nguyễn Thị H1 kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Trọng Văn H, đề nghị xét xử các bị cáo còn lại về tội “ giết người”. Ngày 20/9/2022 bà H có đơn xin rút đơn kháng cáo đối với bị cáo Trọng Văn H, lý do bị cáo H đã bồi thường thêm cho gia đình bà.

- Ngày 30/3/2022 bị cáo Nguyễn Trọng C4 và người giám hộ cho bị cáo là ông Nguyễn Trọng N6có đơn kháng cáo xin cho bị cáo hưởng án treo để được tiếp tục đi học.

- Ngày 30/3/2022 bị cáo Nguyễn Đức N5 và người giám hộ là bà Nguyễn Thị N1 có đơn kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo để được tiếp tục đi học.

- Ngày 04/4/2022 bị cáo Phạm Công T7 và người giám hộ là bà Đào Thị D3 có đơn kháng cáo xin xin cho bị cáo được hưởng án treo để được tiếp tục đi học.

Ngày 29/3/2022 Ông Nguyễn Duy N6 là người giám hộ của bị cáo Nguyễn Duy T10 có đơn kháng cáo xin cho bị cáo được hưởng án treo.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

- Bà Nguyễn Thị H1 và đại diện theo ủy quyền về dân sự đã được triệu tập đúng quy định nhưng vắng mặt không có lý do.

- Bị cáo Trọng Văn H bị kháng cáo đề nghị tăng hình phạt nhưng ngày 20/9/2022 bà Nguyễn Thị H1 đã có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo đối với Trọng Văn H nên bị cáo không trình bầy tại phiên tòa.

- Các bị cáo Phạm Duy H7, Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Nguyễn Trung Nam thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã xác định; đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo.

- Bị cáo Nguyễn Đức N5 và người giám hộ là bà Nguyễn Thị N1 đề nghị ông Nghĩa trình bầy nội dung kháng cáo cho rằng bản án sơ thẩm đã tuyên hình phạt quá nặng, nay bị cáo xin được hưởng án treo vì bị cáo tham gia với vai trò thấp, phạm tội khi còn chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức hạn chế, trược khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng.

- Các bị cáo Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 cũng những người giám hộ đều giữ nguyên kháng cáo xin cho các bị cáo được hưởng án treo vì vai trò đồng phạm thừ yếu, phạm tội khi nhận thức chưa đầy đủ, ăn năn, hối lỗi.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà nội kết luận:

Về tố tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện đúng các quy định về tố tụng.

Kháng cáo của đại diện gia đình bị hại và của các bị cáo nằm trong hạn luật định nên cần được chấp nhận để xét. Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị H1 vắng mặt nhưng có đơn xin rút kháng cáo đối với bị cáo Trọng Văn H do gia đình bị cáo đã bồi thường thêm. Đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm của bà Nguyễn Thị H1 đối với bị cáo Trọng Văn H. Đối với các bị cáo không có kháng cáo: Nguyên nhân gây nên cái chết của bị hai do một mình bị cáo Trọng Văn H gây ra. Điều này được làm rõ qua các tài liệu về thương tích, giám định nguyên nhân chết, lời khai của các bị cáo khác, lời khai của những người làm chứng có đủ cơ sở xác định một mình bị cáo H dùng dao đâm nạn nhân gây nên cái chết như đã được giám định thể hiện tại biên bản khám nghiện tử thi. Các bị cáo khác không ở gần H thực hiện hành vi đấm nạn nhân, không hô hào, giúp sức cho H . Do vậy không có căn cứ xác định các bị cáo còn lại là đồng phạm với H trong việc gây nên cái chết của anh Trần Quang V nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Hoa. Đối với các bị cáo Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Đức N5 và Nguyễn Trọng C4 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” với vai trò đồng phạm giản đơn nhưng hậu quả là H đã gây nên cái chết của anh Vinh. Vì vậy hình phạt tại bản án sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp. Nay không có thêm tình tiết gì mới để chấp nhận kháng cáo cho các bị cáo được hưởng án treo.

Trợ giúp viên pháp lý Trần Minh Nghĩa bảo vệ cho bị cáo Nguyễn Đức N5 nêu quan điểm: Đồng quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa về việc các bị cáo còn lại không phải là đồng phạm trong việc bị cáo Trọng Văn H gây ra cái chết của anh Trần Quang V về tội “Giết người”. Bị cáo Chinh chỉ là người a dua theo bị cáo H đi đòi nợi đối với anh Q , chỉ đá là vỡ bộ ấm chén uống nước tại nhà anh Q rồi bỏ chạy; không có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi tụ tập gây mất trật tự của các bị cáo với cái chết của anh Vinh. Do vậy đề nghị không chấp nhận kháng cáo của đại diện bị hại.

Về nội dung các bị cáo xin hưởng án treo: Hình phạt mà Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã quyết định là quá nghiêm khắc, chưa phù hợp với đường lối nhân đạo của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi, Chưa xem xét đến vai trò thừ yếu của các bị cáo có kháng cáo; bị cáo C không mang theo hung khí nhưng bị áp dụng khoản 2 của điều luật là không đúng. Các bị cáo đều phạm tội trong tình trạng đồng phạm giản đơn, nhất thời phạm tội, đều có nhân thân tốt, có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 và tình tiết tại khoản 2, có bị cáo còn đang đi học phổ thông và đi làm phụ giúp gia đình. Vì vậy đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục.

Trợ giúp viên Trần Thị T và Nguyễn Thị Thu T cũng như nhưng người giám hộ cho các bị cáo có kháng cáo nhất trí và đều có quan điểm đồng nhất với luận cứ của ông Trần Minh N, đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, bản án sơ thẩm và các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của đại diện gia đình bị hại và của các bị cáo Nguyễn Trọng C4, Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7 và bị cáo Nguyễn Duy T10 đều làm trong hạn nên được chấp nhận để xem xét.

Về hành vi, quyết định tố tụng của cac cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Ngày 20/9/2022 bà Nguyễn Thị H1 là người đại diện cho gia đình người bị hại có đơn rút kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trọng Văn H; bà H và người được ủy quyền về dân sự vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm của bà Nguyễn Thị H1 đối với bị cáo Trọng Văn H và xét xử vắng mặt bà H theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án đồng thời xét kháng cáo của đại diện gia đình bị hại về nội dung xét xử các bị cáo về tội Giết người do đồng phạm với Trọng Văn H nhưng chỉ bị xét xử về tội “Gây rối trật tự công cộng”:

Xuất phát từ việc: Do anh Q là anh trai của nạn nhân Trần Q Vinh) thách thức bị cáo H về việc anh Q nợ bị cáo 5.000.000đ cùng tiền lãi chưa trả ; nên khoảng 20 giờ ngày 03/7/2021, bị cáo đã rủ Cương và Trung Nam đi sang nhà anh Q lấy tiền. Bị cáo bảo Biền gọi thêm người để cùng đi. Khi đến nhà anh Q , do anh Q không trả tiền nên bị cáo đấm vào mặt anh Q . Anh Q lấy dao ra chém bị cáo nhưng không trúng. Lúc này, Anh V chạy ra thì bị cáo và Anh V có lời qua tiếng lại nên Anh V ghì cổ bị cáo. Bị cáo lấy điếu cày vụt vào tay anh Vinh. Ngay lúc đó, anh Q cầm dao xông vào chém bị cáo thì bị cáo bỏ Anh V ra chạy thì nhóm Cương, Biền cầm giáo xông vào nên anh Q không dám chém. Nhóm của bị cáo đã bỏ ra về thì Anh V xông vào cầm cuốc định bổ vào người bị cáo H . Bị cáo H cúi người né và cầm tuýp sắt hai tay giơ lên đâm một nhát vào cùng sườn bên phải của anh V. Hậu quả Anh V bị chết do bị sốc, mất máu cấp.

Như vậy, xuất phát từ việc vay nợ cá nhân giữa bị cáo Trọng Văn H với anh Q , bị cáo Trọng Văn H đã sử dụng tuýp sắt vát nhọn một đầu là hung khí nguy hiểm gây thiệt hại đến tính mạng của anh Vinh. Bị cáo nhận thức được việc sử dụng hung khí nguy hiểm sẽ xâm hại tính mạng của người khác nhưng vẫn bảo cả nhóm chuẩn bị hung khí để đi đến nhà anh Q . Hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, thái quá nên phải chịu trách nhiệm chính về hậu quả do mình gây ra. Bị cáo có đầy đủ nhận thức và năng lực trách nhiệm hình sự nhưng không bình tĩnh giải quyết sự việc để hậu chết người xảy ra. Nên tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã xét xử bị cáo về tội “Giết người” theo Điều 123 của Bộ luật Hình sự và phạt bị cáo 20 năm tù là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo Trọng Văn H không kháng cáo.

[2.2] Xét kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Duy H7, Phạm Trung N, Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4:

[2.2.1] Hội đồng xét xử thấy thiệt hại về tính mạng đối với Anh V là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tiếp nhận ý chí từ Trọng Văn H đã chuẩn bị hung khí, sẵn sàng sử dụng khi có va chạm, hậu quả bị cáo Trọng Văn H đã gây ra cái chết của anh V. Hành vi của các bị cáo không phai là nguyên nhân liên quan đến việc gây ra cái chết của nạn nhận nhưng hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến an toàn công cộng, gây mất an ninh trật tự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo và kết luận cac bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi xét xử đã đánh giá đúng về vai trò phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo thực hiện tội phạm thuộc trường hợp đồng phạm theo quy định tại Điều 17 của Bộ luật Hình sự từ đó đã xem xét vai trò của từng bị cáo trong đồng phạm và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với mỗi bị cáo để phân hoá tội phạm cũng như áp dụng mức hình phạt tương xứng theo quy định tại Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Trung N không kháng cáo và cũng không có căn cứ xác định các bị cáo này đồng phạm với bị cáo Trọng Văn H về tội giết người nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của đại diện gia đình bị hại, cần giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo này.

[2.2.2] Đối với các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 được rủ đi cùng nhóm bị cáo Trọng Văn H. Khi đi Phạm Công T7 mang theo dao quắm, Nguyễn Đức N5 mang theo tuýp sắt còn Nguyễn Duy T10 và Nguyễn Duy N6 không mang theo hung khí. Tại hiện trường thì có bị cáo đứng ngoài cổng, Phạm Công T7 mang theo dao quắm cùng H đi vào sân nhà anh Q để gây áp lực với anh Q .

Khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử cấp sơ thảm đã xem xét: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự.Về tình tiết giảm nhẹ : Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Phạm Công T7 có bác ruột là liệt sỹ. Bị cáo Đức N1 có ông nội tham gia bảo vệ thành cổ Quảng trị, tham gia thanh niên xung phong (có công với đất nước). Bị cáo Nguyễn Trọng C4 có ông nội tham gia kháng chiến chống Mỹ, có bác ruột, chú ruột tham gia quân đội. Bị cáo Duy Trung có ông nội được tặng huân, huy chương kháng chiến. Sau khi phạm tội, các bị cáo đã đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với các bị cáo Đức N1, T, T, C, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên được áp dụng Điều 91 của Bộ luật Hình sự. Xét các bị cáo phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, các bị cáo đã chuẩn bị và mang theo hung khí là thể hiện sự coi thường pháp luật nên đã quyết định buộc các bị cáo phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian theo Điều 101 của Bộ luật Hình sự để giáo dục các bị cáo đồng thời cũng là để răn đe, phòng ngừa chung là cần thiết. Nên không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo củ các bị cáo.

Tuy nhiên xét hình phạt đối với các bị cáo phạm tội khi còn trong độ tuổi đi học do tH sự quản lý của gia đình và nhận thực pháp luật chưa đầy đủ. Vì vậy cần cho các bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật giảm cho mỗi bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo nhận thức và có điều kiện cải tạo tốt sớm trở lại với xã hội là công dân có ích.

- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Tuy trong đơn xin rút đơn kháng cáo đối với bị cáo Trọng Văn H thì bà Nguyễn Thị H1 có nêu gia đình bị cáo đã bồi thường thêm nhưng không ghi rõ số tiền cụ thể nên không có căn cứ để ghi nhận, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự. Vấn đề này nếu có sẽ được xem xét trong quá trình thi hành án dân sự.

- Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 356, 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án,

QUYẾT ĐỊNH

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1 về hình phạt và trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Trọng Văn H; các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2021/HSST ngày 16/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với bị cáo Trọng Văn H có hiệu lực pháp luật.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1 về tội danh đối với các bị cáo Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Duy H7, Phạm Trung N; Giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2021/HSST ngày 16/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng về tội “Gây rối trật tự công cộng”; Giữ nguyên quyết định về hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Duy C, Hoàng Văn B, Phạm Duy H7, Phạm Trung N. Cụ thể như sau:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Duy C 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Bị cáo Hoàng Văn B 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, Điều 56, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Phạm Duy H7 mức án 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt 36 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” tại Bản án số 108/2021/HS-PT ngày 09/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 66 (sáu mươi sáu) tháng tù. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

Bị cáo Phạm Trung N 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/7/2021).

3. Chấp nhận một phần kháng cáo của người giám hộ cho các bị cáo và các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4; Sửa một phần các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2021/HSST ngày 16/8/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng theo hướng giảm một phần hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Duy T10, Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Trọng C4. Cụ thể như sau:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 54; Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Đức N5 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Phạm Công T7 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Nguyễn Duy T10 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Bị cáo Nguyễn Trọng C4 12 (mười hai) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ (từ ngày 04/7/2021 đến ngày 13/7/2021).

Cm các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 đi khỏi nơi cư trú. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú được tính kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 đi chấp hành án phạt tù.

4. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị cáo Trọng Văn H phải bồi thường cho gia đình anh Trần Quang V 224.000.000đ (hai trăm hai mươi bốn triệu đồng) tiền bồi thường về mai táng phí và tổn thất về tinh thần cho gia đình anh Trần Quang V (bà Nguyễn Thị H1, nơi cư trú: Đội 12, thôn Lô Đ, xã Vĩnh L, huyện Vĩnh B, Hải Phòng là người đại diện hợp pháp của bị hại nhận).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

5. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Đức N5, Phạm Công T7, Nguyễn Duy T10, Nguyễn Trọng C4 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bn án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 704/2022/HS-PT

Số hiệu:704/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về