Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 104/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 104/2023/HS-PT NGÀY 10/03/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 10/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 1028/2022/TLPT-HS ngày 28/10/2022 do có kháng cáo của các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4, Lê Văn A8, Liễu Trường A12 và Nguyễn Ngọc A15, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Phùng Văn A, tên gọi khác: Không; sinh ngày 16/12/1970 tại Vĩnh Phúc; Nơi cư trú: Thôn BY, xã HĐ, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 07/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn A1 (đã chết), con bà Đỗ Thị A2; vợ: Nguyễn Thị A3, có 05 con; tiền sự: Không;

Tiền án:

- Tại Bản án số 12/HSST ngày 16/5/2008 của TAND huyện TD xử phạt Phùng Văn A 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 23.900.000 đồng), được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam, buộc A phải chấp hành 35 tháng 08 ngày tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng. A đã chấp hành xong án phí và tiền phạt ngày 16/5/2008.

- Tại Bản án số 35/HSST ngày 15/7/2011 của TAND huyện TD xử phạt Phùng Văn A 01 năm tù về tội “Đánh bạc. Tổng hợp với hình phạt 35 tháng 08 ngày tù cho hưởng án treo của Bản án số 12/HSST, buộc A phải chấp hành chung cho cả 1 hai bản án là 04 năm 05 tháng 08 ngày tù. A đã chấp hành xong án phí và tiền phạt ngày 01/4/2013.

- Tại Bản án số 09/HSST ngày 01/4/2013 của TAND huyện TD xử phạt Phùng Văn A 04 năm tù về tội “Đánh bạc”, 04 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc” (ngày phạm tội 25/12/2011). Tổng hợp với hình phạt 04 năm 05 tháng 08 ngày tù của Bản án số 35/HSST, buộc A phải chấp hành hình phạt chung là 12 năm 05 tháng 08 ngày tù. A chấp hành xong hình phạt tù ra trại ngày 28/01/2021; đã thi hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Nhân thân: Ngày 08/12/2004, bị Công an huyện TĐ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, A đã nộp phạt ngày 24/5/2005.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Hải A4, tên gọi khác: Không; sinh ngày 20/6/1973 tại tỉnh Vĩnh Phúc;

Nơi cư trú: Thôn 11, xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 02/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A5, con bà Đào Thị A6; có vợ là Lăng Thị A7 và có 03 con; tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 25/3/2020, UBND huyện TD ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi chứa bạc, mức phạt 5.000.000đ. Ngày 03/4/2020, A4 đã nộp phạt xong;

Nhân thân:

- Tại Bản án số 02/HSST ngày 21/6/2002 của TAND huyện TD xử phạt Nguyễn Hải A4 7.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 1.185.000 đồng).

- Tại Bản án số 09/HSST ngày 01/4/2013 của TAND huyện TD xử phạt Nguyễn Hải A4 12 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 34.780.000 đồng). A4 đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/5/2013, thi hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm ngày 03/5/2013.

- Ngày 08/5/2009, Nguyễn Hải A4 bị khởi tố về tội “Đánh bạc”, số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 260.000 đồng. Ngày 10/8/2009, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện TD ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án, bị can đối với A4, do chuyển biến tình hình và ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, A4 đã nộp phạt xong.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

3. Lê Văn A8, tên gọi khác: Không; sinh ngày 19/8/1990 tại Vĩnh Phúc;

Nơi cư trú: Thôn QN, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn A9, con bà Nguyễn Thị A10; vợ: Nguyễn Thị A11, có 02 con; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 30/01/2016, Công an huyện TĐ ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Lê Văn A8 về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác, mức phạt 750.000 đồng. Ngày 23/02/2016, A8 đã nộp phạt xong.

- Ngày 04/11/2019, Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, mức phạt 500.000 đồng. Ngày 12/11/2019, A8 đã nộp phạt xong.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

4. Liễu Trường A12, tên gọi khác: Không; sinh ngày 18/7/2001 tại Tuyên Quang;

Nơi cư trú: Thôn ĐT, xã TT, huyện SD, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Liễu Văn A13, con bà Đỗ Thị A14; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/11/2018, bị Công an huyện SD, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, mức phạt 375.000 đồng. A12 chưa nộp phạt. Tuy nhiên, xác A20 hồ sơ lưu trữ của Công an huyện SD: Công an huyện SD có gửi thông báo về việc xử phạt vi phạm hành chính cho UBND xã TL, huyện SD nhưng không có tài liệu việc Giao nhận Quyết định xử phạt hành chính cho A12, không có tài liệu thể hiện việc đôn đốc, nhắc nhở A12 thi hành Quyết định nêu trên. Do vậy, thời hiệu thi hành quyết định xử phạt hành chính này đối với A12 đã hết.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt. Phúc;

5. Nguyễn Ngọc A15, tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/10/2001 tại Vĩnh Nơi cư trú: Thôn 11, xã HH, huyện TD, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hải A4 (là bị cáo trong vụ án), con bà Lăng Thị A7; vợ, con: Chưa có; tiền án: không; tiền sự: Ngày 25/3/2020, Công an huyện TD xử phạt hành chính đối với Nguyễn Ngọc A15 về hành vi Đánh bạc, mức phạt 1.000.000 đồng. Ngày 03/4/2020, A15 đã nộp phạt xong; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay, có mặt.

* Ngoài ra trong vụ án còn có: Các bị cáo Trần Ngọc A16, Phùng Văn A17, Nguyễn Xuân A18, Phùng Văn A19, Trương Văn A20, Nguyễn Thế A21 và một số bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 03/3/2021, Nguyễn Hữu A22 điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 88A - 291.42 đến kho gỗ của anh Nguyễn Văn A23 ở đường tuyến liên xã Đồng Tĩnh - Hợp Châu (thường gọi là đường 36) thuộc thôn KT, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc để mua và vận chuyển gỗ sưa. Đi cùng A22 có Lê Văn A8 và Nguyễn Thế A21; trên đường đi Lê Văn A8 vào gọi Trần Ngọc A16, Trương Văn A20 và Liễu Trường A12 (là những người làm nghề bốc vác, vận chuyển gỗ cho anh A22) đến kho gỗ của anh A23 để bốc hàng, mọi người đều đồng ý. Sau đó, A22, A8 và Nguyễn Thế A21 tiếp tục lên xe ô tô của A22 đi trước đến kho gỗ của anh A23. Khi đến nơi, A22, A8 và Nguyễn Thế A21 gặp nhóm của Nguyễn Hải A4 và Nguyễn Xuân A18, Nguyễn Ngọc A15 (A18, A15 đều là con trai của A4) và Lưu Thị A24 đang quấn bao tải vào gỗ sưa ở kho gỗ của anh A23. Anh A22 thấy nhóm người của A4 làm công việc của mình nên thắc mắc với anh A23. A4 thấy nhóm của A22 cũng đến để bốc gỗ sưa và cho rằng A22 đã thỏa thuận trước với anh A23 rồi nên A4 ngăn cản không cho nhóm của A22 vào kho bốc gỗ. Do vậy, giữa A22 và A4 xảy ra cãi nhau, to A8g với nhau. Lúc này, A16 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88E1 - 312.50 chở theo A20 và A12 cũng đi đến kho gỗ của anh A23 để bốc gỗ cho anh A22. Anh A22 không tranh cãi với A4 nữa mà lên xe nổ máy, bật xi nhan trái để đi thì A4 đi bộ từ vỉa hè trước cửa kho gỗ của anh A23 ra đứng chặn ở đầu xe ô tô của anh A22. Lúc này, Phùng Văn A điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 25A - 404.04 chở trên xe có anh Nguyễn Thành A25, Phùng Văn A19 và Phùng Văn A17 (những người này đều làm việc cho A4) cũng đi đến kho gỗ của anh A23 để bốc gỗ cho A4. A dừng xe ô tô phía sau xe ô tô của anh A22 rồi A, anh A25, Phùng Văn A19 và A17 cùng xuống xe, đi về phía A4. Thấy vậy, anh A22, A8 và Nguyễn Thế A21 cũng ra khỏi xe ô tô đi về phía A4. Anh A22 và A4 tiếp tục cãi nhau về việc tại sao A4 chặn xe không cho anh A22 đi thì Phùng Văn A19 lao vào dùng tay phải đẩy, đấm một cái vào ngực anh A22. Anh A22 bị Phùng Văn A19 đẩy mạnh về phía sau hướng ra phía lòng đường 36, nên anh A22 phải đi giật lùi đồng thời dùng tay phải giơ lên để giữ thăng bằng và đỡ lại. Lúc này, A12, A8, Nguyễn Thế A21 đứng ở cạnh đó thấy anh A22 bị Phùng Văn A19 đánh thì cùng nhau lao đến, dùng tay đẩy Phùng Văn A19 về phía sau xe của anh A22; A12 dùng bình xịt nước xịt vào mặt Phùng Văn A19, giằng co và dùng tay đấm 5 - 6 cái vào người Phùng Văn A19; A8 đấm 2 - 3 cái vào lưng và vào người Phùng Văn A19 và cùng A12 giằng co với Phùng Văn A19. Nguyễn Thế A21 dùng tay phải đấm một cái vào đầu của Phùng Văn A19. A20 lao vào đấm 01 cái về phía Nguyễn Xuân A18 nhưng không trúng.

Ngay lúc này A16 rút ra 01 con dao, kiểu dao gấp trong bộ đa năng có bấm móng tay, dao có một lưỡi sắc, mũi nhọn, chiều dài lưỡi dao khoảng 5 - 6cm, độ rộng lưỡi dao khoảng 1,5 - 2cm để sẵn trong người giơ lên, đâm mạnh về phía nhóm A, A15, A18 đang đứng đối diện với A16. A16 thấy Phùng Văn A19 đang giằng co với A12, A8 nên A16 lao đến, tay phải cầm dao vung từ trên xuống dưới, hướng lệch từ trái sang phải đâm trúng vào vùng sườn trên hông của Phùng Văn A19 làm A19 rách áo; A16 tiếp tục dùng tay phải cầm dao hướng mũi dao ngược từ dưới lên trên đâm trúng vào sườn bên phải của Phùng Văn A19. A16 thấy A18 đứng gần đó thì A16 cầm dao quay sang dồn đuổi, doạ A18 làm A18 bỏ chạy. Sau đó, A16 quay lại, A8 về phía Phùng Văn A19, A16 cầm dao bên tay phải vung hướng mũi dao từ dưới lên trên đâm trúng 01 nhát vào vùng bụng Phùng Văn A19 làm Phùng Văn A19 bị thương, ngã ngồi xuống đường. Thời điểm A12 và A8 giằng co, xô đẩy, đánh nhau với A19 thì A4 đã chạy quay vào kho gỗ của anh A23 lấy 01 đoạn gậy gỗ dài 69cm, đường kính rộng nhất khoảng 4cm chạy đuổi A16, hai tay cầm gậy gỗ giơ cao vụt từ sau về trước, từ trên xuống dưới, chếch chéo từ trái sang phải về phía A16 nhưng A16 tránh được. A4 tiếp tục đuổi theo A16 vụt gậy về phía A16 thì A16 quay lại lao về phía A4. Vẫn đà lao vào, A16 đẩy A4 ngã ngửa xuống lòng đường, tay phải cầm dao đâm về phía A4 thì A4 tránh được. Lúc này, chị Lưu Thị A24 đang đứng gần đó thấy A4 và A16 đánh nhau nên vào can ngăn, đỡ A4 đứng dậy thì bị A16 đâm trúng dao vào cổ tay chị A24 làm chị A24 bị thương tích chảy máu. Anh A22 vào can ngăn giằng gậy gỗ khỏi tay A4 thì A4 và A16 không đánh nhau nữa. Cùng lúc này, A17 cầm 02 chiếc điếu cày bằng tre, mỗi chiếc dài khoảng 60cm, đường kính 4cm từ quán ăn của anh Nguyễn Văn A26 (quán ở sát cạnh kho gỗ của anh A23) lao về phía A16 để đánh thì nhóm A16, A8, A12, A20, Nguyễn Thế A21 bỏ chạy sang lề đường đối diện. Lúc này, A18 chạy ra giật lấy một điếu cày từ tay A17 rồi A17 và A18 cùng cầm điếu cày đứng chửi nhau với nhóm A16. Thấy hai bên đánh, chửi nhau, A15 liền điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 88K1 – 171.23 về nhà lấy 02 dao phóng lợn dài khoảng 1,8m, có một đầu được hàn gắn thêm dao nhọn cầm ra trước cửa kho gỗ của A23 để đánh lại nhóm A16 thì bị anh A23 ôm giữ lại để can ngăn. Lúc này, A, A17 chạy đến giật lấy mỗi người cầm 01 dao phóng lợn của A15 để dồn đuổi nhóm A16. Khi đó nhóm A16, A8, A12, A20, Nguyễn Thế A21 đang đứng ở dải phân cách cứng giữa đường 36 chửi bới, thách thức thì nhóm A, A17 cầm dao phóng lợn, A18 cầm điếu cày, A15 không cầm gì cùng chạy sang bên kia đường để dồn đuổi đánh nhóm A16 thì nhóm A16, A8, A12, A20, Nguyễn Thế A21 lại bỏ chạy. Trong quá trình bỏ chạy, A16, A8, A12 mỗi người cầm ½ viên gạch nhặt ở ven đường ném lại nhóm A, nhưng không trúng ai. Sau khi A16, A8, A12, A20, Nguyễn Thế A21 chạy thoát thì A, A17, A18, A15 ra về. Hậu quả: Phùng Văn A19 bị thương tích phải đi bệnh viện cấp cứu điều trị; chị Lưu Thị A24 bị thương tích phải điều trị tại bệnh viện. Sự việc các đối tượng đánh nhau làm mất trật tự khu dân cư trên địa bàn.

Ngay sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện TĐ đã phối hợp cùng các cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, thu giữ vật chứng và A8 hành điều tra theo quy định.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 103/TgT ngày 29/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận thương tích của Phùng Văn A19 như sau:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Khâu hai lỗ thủng dạ dày, xếp: 27%.

- Vết mổ đường trắng giữa trên rốn, xếp: 02%.

- Vết mổ nằm ngang vùng hố chậu phải, xếp: 01%.

- Vết thương phần mềm chân tóc mai bên trái, xếp: 01%.

- Vết thương phần mềm giáp cạnh vết thương đường trắng giữa trên rốn lệch phải, xếp: 01%.

- Vết thương phần mềm 1/3 trên đường cách giữa bên phải, xếp 01%.

- Dày dính khoang màng phổi kèm xẹp phổi vùng đáy phổi hai bên. Tràn khí khoang màng phổi phải mức độ ít. Gãy cung bên xương sườn 6 phải. Tổn thương dạng hang nhỏ nhu mô sát màng phổi thùy dưới phổi phải. Mẻ xương cung trước xương sườn 5 bên phải. Kết mạc mắt trái xung huyết. Vết bầm tím mặt cổ bên trái. Hiện tại chưa đánh giá được mức độ tổn thương, khi nào điều trị ổn định giám định bổ sung.

- Cơ chế hình thành vết thương:

+ Vết thương vùng chân tóc mai bên trái, vết thương vùng thượng vị và vết thương vùng ngực do vật sắc nhọn gây nên.

+ Kết mạc mắt trái xung huyết và vết bầm tím mặt cổ bên trái do vật tày gây nên.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở thời điểm hiện tại là: 31% theo phương pháp cộng tại thông tư.” Tại Bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 155/TCT ngày 10/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

“1/ Dấu hiệu chính qua giám định:

- Khâu hai lỗ thủng dạ dày, xếp: 27%.

- Sẹo vết mổ đường trắng giữa trên rốn, xếp: 02%.

- Sẹo vết mổ nằm ngang vùng hố chậu phải, xếp: 01%.

- Sẹo vết thương phần mềm chân tóc mai bên trái, xếp: 01%.

- Sẹo vết thương phần mềm giáp cạnh vết thương đường trắng giữa trên rốn lệch phải, xếp: 01%.

- Sẹo vết thương phần mềm 1/3 trên đường cách giữa bên phải + Dày dính khoang màng phổi kèm xẹp phổi vùng đáy phổi hai bên, tràn khí khoang màng phổi phải mức độ ít không để lại di chứng trên hình ảnh phim chụp CLVT lồng ngực ngày 04/5/2021 tại Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt tỉnh Vĩnh Phúc, xếp: 07%.

- Gãy cung bên xương sườn 6 bên phải, xếp: 02%.

- Mẻ xương cung trước xương sườn 5 bên phải, xếp: 01%.

2/ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở thời điểm hiện tại là: 37% theo phương pháp cộng tại thông tư.” Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 104/TCT ngày 25/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận thương tích của chị A24 như sau:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương phần mềm mặt trước ngoài cổ tay trái kích thước A25 bình, xếp 2%.

- Khâu nối đứt gân gấp cổ tay quay trái chưa đánh giá được các biến chứng sau phẫu thuật, chờ khi nào ra viện ổn định giám định bổ sung.

2/ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở thời điểm hiện tại là: 2% theo phương pháp cộng tại thông tư.” - Ngày 04/5/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định bổ sung đối với thương tích của chị Lưu Thị A24. Tại Bản kết luận giám định pháp y số 156/Tg ngày 10/5/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo vết thương phần mềm mặt trước ngoài cổ tay trái kích thước A25 bình xếp: 02%.

- Khâu nối đứt gân gấp cổ tay quay trái, hạn chế vận động ngón I tay trái xếp: 01%.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở thời điểm hiện tại là: 03% (ba phần trăm) theo phương pháp cộng tại thông tư.” * Đối với thương tích của Trần Ngọc A16:

- Tại Biên bản xác A20 hồi 20h00’ ngày 03/3/2021 tại Trung tâm y tế huyện TĐ thể hiện: Có 01 vết thương vùng đỉnh trái rách da sâu dài 5cm, rộng 0,5cm, sâu sát xương.

- Ngày 18/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TĐ trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định thương tích của Trần Ngọc A16. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 108/TgT ngày 23/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định.

- Vết thương phần mềm vùng thái dương đỉnh trái kích thước nhỏ, xếp: 01%.

- Cơ chế: Thương tích đã mô tả trên do vật tày có cạnh gây nên.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên ở thời điểm hiện tại là: 01% (một phần trăm) theo phương pháp cộng tại thông tư”.

- Ngày 17/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã có Văn bản số 1071 đề nghị Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc cho biết vật sắc nhọn để gây thương tích trên cơ thể của Phùng Văn A19 nêu trên có kích thước (dài, rộng) như thế nào. Tại Văn bản số 36 ngày 22/9/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc đã trả lời như sau: “Vật sắc nhọn để gây ra thương tích trên cơ thể Phùng Văn A19 đã nêu trên có kích thước tối thiểu dài khoảng (4-6)cm và độ rộng khoảng (1,5- 2,5)cm”.

- Ngày 04/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định hung khí (đoạn gậy gỗ dài 69cm, đường kính rộng nhất khoảng 4cm) có thể gây nên thương tích của Trần Ngọc A16 như trong bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 108/TgT nêu trên không. Tại Bản kết luận giám định pháp y về hung khí số 01/TgT ngày 12/01/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Đối với hung khí là thanh gậy gỗ trên có nhiều đặc điểm góc cạnh có thể gây nên thương tích vùng thái dương bên trái của Trần Ngọc A16”.

* Đối với tệp video do anh Nguyễn Văn A26 cung cấp:

Ngày 09/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TĐ trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định kỹ thuật số điện tử đối với 01 tệp video thu giữ do anh Nguyễn Văn A26 cung cấp, yêu cầu giám định đoạn video có bị cắt ghép, chỉnh sửa không. Chụp ảnh, mô tả và thuyết minh nội dung, diễn biến vụ việc trong đoạn video. Tại Bản kết luận giám định số 644/KLGĐ ngày 22/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã kết luận:

“- Từ chối giám định đối với yêu cầu sau: “Đoạn video clip bên trong đĩa DVD gửi giám định có bị cắt ghép, chỉnh sửa không”.

- Chụp được 12 ảnh mô tả diễn biến hành động đánh nhau của các đối tượng xuất hiện trong tệp tin video gửi giám định thời gian từ 13 giờ 46 phút 40 giây đến 14 giờ 15 phút 00 giây ngày 03/3/2021 (theo thời gian hiển thị trên video). Toàn bộ ảnh chụp được in và thuyết minh trong Bản ảnh giám định.

Ảnh 1: Xuất hiện 03 người (trong khung tròn màu đỏ) từ trong xe ô tô màu đỏ đi xuống.

Ảnh 2: 03 người từ xe ô tô màu đỏ đi vào nhóm người đang đứng trước cửa nhà và xảy ra lôi kéo, xô đẩy nhau.

Ảnh 3: Xuất hiện 03 người mặc áo tối màu đi xe mô tô đến.

Ảnh 4: Xuất hiện 04 người (trong khung tròn màu đỏ) đi ra từ chiếc xe ô tô màu trắng. Trong đó người A mặc áo sáng màu.

Ảnh 5: Người A đi đến và có hành động dùng hai tay của mình đẩy người mặc áo đỏ về phía sau (trong khung hình màu đỏ).

Ảnh 6: Sau đó người A đi đến đứng gần 02 người mặc áo tối màu. Người B đội mũ lưỡi trai (trong nhóm 03 người ở hình 3) cầm 01 vật X ở tay giơ lên cao, sau đó có hành động khua về phía nhóm người đối diện.

Ảnh 7, 8: Người B cầm 01 vật X (trong khung hình màu đỏ) ở tay giơ lên cao chạy về phía người A, có hành động dùng vật X đánh vào người A. Trong khi đó người A bị 03 người mặc áo đen dùng tay, chân đánh, đá vào người.

Ảnh 9, 10: Người B tiếp tục dùng vật X trên tay có hành động khua về nhóm người đối diện.

Ảnh 11, 12: Xuất hiện người C tiếp tục dùng vật Y dạng thanh dài sáng màu trên tay có hành động khua về phía nhóm người đối diện”.

Kết quả điều tra xác định: “Người A” trong bản ảnh là Phùng Văn A19; “Người B cầm 01 vật X” là Trần Ngọc A16 cầm dao đâm, gây thương tích cho Phùng Văn A19; “Người C cầm 01 vật Y” là Nguyễn Hải A4 cầm gậy gỗ vụt về phía A16.

Ngày 15/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện TĐ trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám định đối với 01 tệp video thu giữ lưu trong đĩa DVD màu vàng nêu trên gửi giám định để xác định có bị cắt ghép không. Tại Bản kết luận giám định số 2979 ngày 28/4/2021 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:“Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong tệp video mẫu cần giám định”.

- Ngày 21/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 06, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định bổ sung đối với đĩa DVD màu vàng, có chữ Maxecco, lưu 01 tệp tin video có tên ch03_20210303133000.mp4, kích thước 604MB (là dữ liệu do anh Nguyễn Văn A26 cung cấp). Yêu cầu:

“- Chụp ảnh, mô tả, thuyết minh chi tiết diễn biến hành động của người mặc áo xám và người mặc áo cam ở thời điểm 14 giờ 00 phút 09 giây đến 14 giờ 00 phút 11 giây (thời gian hiển thị trên camera).

- Chụp ảnh, mô tả, thuyết minh chi tiết diễn biến hành động của người mặc áo xám và người mặc áo cam ở thời điểm 14 giờ 00 phút 24 giây đến 14 giờ 00 phút 26 giây (thời gian hiển thị trên camera)”.

Tại Kết luận giám định số 695/KLGĐ ngày 26/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

“1. Chụp được 06 ảnh mô tả diễn biến hành động của người mặc áo xám và người mặc áo cam xuất hiện trong video tại thời điểm từ 14 giờ 00 phút 09 giây đến 14 giờ 00 phút 11 giây (theo thời gian hiển thị trên video) từ tệp tin video gửi giám định.

- Chụp được 07 ảnh mô tả diễn biến hành động của người mặc áo xám và 03 người mặc áo tối màu xuất hiện trong video tại các thời điểm: từ 14 giờ 00 phút 16 giây đến 14 giờ 00 phút 18 giây và từ 14 giờ 00 phút 24 giây đến 14 giờ 00 phút 26 giây (theo thời gian hiển thị trên video) từ tệp tin video gửi giám định.” Tại bản ảnh thuyết minh kèm theo kết luận giám định nêu trên có ghi:

Ảnh 1 -2: Xuất hiện 01 người mặc quần dài màu đen, áo dài màu xám (ký hiệu ĐT1) bước xuống từ chiếc xe ô tô màu trắng rồi đi về phía trước đầu xe ô tô màu đỏ. Và 01 người mặc áo dài màu cam (ký hiệu ĐT2) bước ra từ trong xe ô tô màu đỏ, đi lên phía đầu xe, đứng gần ĐT1 (sử dụng để ký hiệu các đối tượng trong bản ảnh cần giám định).

I. Thuyết minh chi tiết diễn biến hành động người mặc áo xám và người mặc áo màu cam ở thời điểm 14 giờ 00 phút 09 giây đến 14 giờ 00 phút 11 giây (thời gian hiển thị trên camera):

Ảnh 1, 2: ĐT1 đi đến trước ĐT2 tả trên, ĐT1 dùng tay trái đưa ra phía trước túm vào tay phải ĐT2, rồi dùng tay phải đưa về phía trước ngực ĐT2, làm ĐT2 lùi lại phía sau, tay phải ĐT1 đưa về phía dưới tay trái ĐT2 làm tay trái ĐT2 vung lên.

Ảnh 3, 4: ĐT2 lùi lại giơ tay phải lên đưa phần cùi trỏ tay phải vào vùng đầu ĐT1.

Ảnh 5, 6: ĐT1 giơ tay về phía trước đuổi theo, ĐT2 lùi lại phía sau rồi hai đối tượng này tách nhau ra.

II. Thuyết minh chi tiết diễn biến hành động của người mặc áo xám và 03 người mặc áo tối màu tại thời điểm 14 giờ 00 phút 16 giây đến 14 giờ 00 phút 18 giây (thời gian hiển thị trên camera):

Ảnh 7, 8: Đối tượng ĐT1 bị 03 người mặc áo tối màu dùng tay kéo về vị trí gần chiếc xe ô tô màu trắng, các đối tượng này dùng tay đánh vào vùng đầu ĐT1.

Ảnh 9, 10: 03 đối tượng mặc áo tối màu tả trên tiếp tục dùng tay đánh vào vùng đầu, mặt của ĐT1, sau đó ĐT1 và 01 đối tượng trong nhóm 03 đối tượng mặc áo tối màu tả trên dùng tay tóm lấy nhau. Còn 02 đối tượng còn lại chạy ra chỗ khác.

III. Thuyết minh chi tiết diễn biến hành động của người mặc áo xám và 03 người mặc áo tối màu tại thời điểm 14 giờ 00 phút 24 giây đến 14 giờ 00 phút 26 giây (thời gian hiển thị trên camera):

Ảnh 11, 12: ĐT1 và 02 đối tượng mặc áo tối màu tả trên tiếp tục dùng tay, chân đánh về phía nhau, do bị che khuất nên không rõ đánh vào vị trí nào của nhau.

Ảnh 13: ĐT1 và 03 đối tượng mặc áo tối màu tả trên tiếp tục đánh nhau, do bị che khuất nên không rõ đánh vào vị trí nào của nhau”.

Kết quả điều tra xác định “ĐT1” trong bản ảnh là Phùng Văn A19; “ĐT2” là anh Nguyễn Hữu A22.

- Ngày 21/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra Quyết định trưng cầu giám định số 116, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định đối với 01 USB nhãn hiệu TOSHIBA bên trong lưu trữ 01 tệp tin video có tên: 2067304959000533541.mp4, kích thước 22.2 MB do Phùng Văn A19 giao nộp. Tại Bản kết luận giám định số 701/KLGĐ ngày 26/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc đối với tập video này đã kết luận:

“Trích xuất được 10 ảnh theo yêu cầu giám định từ tập tin video gửi giám định, chi tiết được thể hiện trong bản ảnh giám định.” Tại bản ảnh thuyết minh xác định:

I. Ảnh trích xuất trong khoảng thời gian 14 giờ 00 phút 09 giây đến 14 giờ 00 phút 11 giây (thời gian hiển thị trên camera):

Ảnh 1: Xuất hiện 01 người mặc áo màu xám (người A) và 01 người mặc áo màu cam (người B) đứng khuất sau 01 xe ô tô màu đỏ.

Ảnh 2 - 4: Người A và B đứng đối diện nhau, sau đó hai người này giằng co, xô đẩy nhau ra phía đường.

II. Ảnh trích xuất trong khoảng thời gian 14 giờ 00 phút 16 giây đến 14 giờ 00 phút 18 giây, 14 giờ 00 phút 24 giây đến 14 giờ 00 phút 26 giây (thời gian hiển thị trên camera).

Ảnh 5 – 7: Người A giằng co, xô đẩy với 03 người mặc áo tối màu; những người này dùng tay đấm về phía nhau.

Ảnh 8 -10: Người A và 03 người mặc áo tối màu tiếp tục giằng co, xô đẩy nhau (không quan sát được cụ thể diễn biến do bị khuất khỏi quan sát)”.

Kết quả điều tra xác định “Người A” trong bản ảnh là Nguyễn Hữu A22, “Người B” là Phùng Văn A19.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải A4, Phùng Văn A, Lê Văn A8, Liễu Trường A12, Nguyễn Ngọc A15 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Căn cứ điểm b, e khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phùng Văn A 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hải A4 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn A8 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Liễu Trường A12 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A15 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định đình chỉ xét xử đối với Trần Ngọc A16 về tội “Cố ý gây thương tích”; xử phạt bị cáo A16 08 năm tù về tội “Giết người”; xử phạt các bị cáo khác về tội “Gấy rối trật tự công cộng” với mức hình phạt từ 06 tháng tù cho hưởng án treo đến 02 năm 03 tháng tù; bản án còn buộc trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ nộp án phí, xử lý vật chứng và tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/9/2022 các bị cáo Nguyễn Sơn A17, Nguyễn Ngọc A15, Phùng Văn A; ngày 30/9/2022 bị cáo Lê Văn A8; ngày 03/10/2022 bị cáo Liễu Trường A12 đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và trình bày như sau:

Các bị cáo trình bày: Đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết. Tuy nhiên, các bị cáo cho rằng với mức án như bản án sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo là quá cao so với hành vi phạm tội của từng bị cáo. Bởi vì, quá trình điều tra các bị cáo đều khai báo thành khẩn, việc phạm tội mục đích chủ yếu để tự vệ, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích đánh giá chứng cứ cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử quy kết về hành vi phạm tội của các bị cáo như bản án sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật. Khi xét xử cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo nên đã xử phạt bị cáo mức án như bản án sơ thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo A, A4 có xuất trình tài liệu mới thể hiện bị cáo A có bố, mẹ đẻ là người có công được tặng huân chương kháng chiến; bị cáo A4 có công cứu giúp người bị nạn, cả hai bị cáo đã nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm thể hiện các bị cáo đã ăn năn hối cải, nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của cả hai bị cáo. Đối với các bị cáo A12, A8, A15 không có thêm tình tiết gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Vì vậy, đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo A12, A8, A15 giữ nguyên mức hình phạt như bản án sơ thẩm; chấp nhận kháng cáo của bị cáo A, A4 sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho cả hai bị cáo với mức từ 03 tháng đến 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của từng bị cáo như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án, lời khai người bị hại và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra. Đặc biệt là các kết luận giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Xuất phát từ việc tranh giành việc bốc xếp, vận chuyển gỗ nên giữa anh Nguyễn Hữu A22 và Nguyễn Hải A4 xảy ra cãi nhau dẫn đến hai bên xô xát, hành hung nhau. Cụ thể khi thấy anh A22 và A4 cãi nhau thì Phùng Văn A19 lao vào đấm 01 cái vào ngực anh A22, xô đẩy anh A22, Liễu Trường A12 dùng bình xịt nước vào mặt Phùng Văn A19, giằng co và đấm nhiều cái vào người Phùng Văn A19; Lê Văn A8 cũng giằng co và đấm nhiều cái vào người Phùng Văn A19; Nguyễn Hải A4 cầm 01 gậy gỗ chạy đến vụt về phía A16 nhưng A16 tránh được. A4 tiếp tục đuổi theo A16 vụt về phía A16 thì A16 đẩy A4 ngã ngửa xuống đường; Nguyễn Ngọc A15 lấy 02 dao phóng lợn ra, mục đích để đánh lại nhóm A16 thì A, A17 chạy đến giật lấy mỗi người cầm một dao phóng lợn của A15, cùng với A18 cầm điếu cày, A15 không cầm gì cùng dồn đuổi đánh nhóm A16 nên A16, A8, A12, A20, Nguyễn Thế A21 bỏ chạy. A16, A8, A12 vừa bỏ chạy vừa mỗi người cầm 1/2 viên gạch nhặt ở ven đường ném lại nhóm A, nhưng không trúng ai. Hậu quả: Phùng Thế A19 bị thương tích 37%, chị Lưu Thị A24 bị thương tích 3%, Trần Ngọc A16 bị thương tích 1%; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Hành vi đó của các bị cáo đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự. Bản án sơ thẩm quy kết đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, các bị cáo không bị oan.

[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo sử dụng hung khí và tham gia thực hiện tội phạm với vai trò tích cực, bị cáo A đã sử dụng 01 dao phóng lợn để dồn đuổi nhóm A16; bị cáo A4 sử dụng 01 gậy gỗ để vụt về phía A16; bị cáo A8 đấm vào lưng Phùng Văn A19, cùng A12 giằng co với Phùng Văn A19, đồng thời dùng ½ viên gạch ném nhóm của A; bị cáo A12 dùng bình xịt nước xịt vào mặt Phùng Văn A19; giằng co và dùng tay đấm Phùng Văn A19, dùng ½ viên gạch ném nhóm của A. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý nghiêm, bị cáo A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo A theo điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự và các bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Liễu Trường A12, thấy: Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội, đã phân hóa đúng vai trò của bị cáo; đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo khai báo thành khẩn. Tuy nhiên, Liễu Trường A12 là người có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật, quá trình thực hiện tội phạm cũng tỏ ra tích cực, nên Tòa án cấp sơ đã xử phạt tù bị cáo mức án ở mức khởi điểm của khung hình phạt như bản án sơ thẩm là phù hợp, không cao. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình tài liệu cho rằng có chú là Liễu Xuân A27 là thương binh 4/4, nhưng chưa đủ căn cứ xác định mối quan hệ giữa bị cáo với ông Liễu Xuân A27, hơn nữa nếu có thì đấy cũng chỉ là tình tiết giảm nhẹ được quy định ở khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, không đủ điều kiện để xử bị cáo dưới khung hình phạt, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghi không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Đối với các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4, Lê Văn A8, Nguyễn Ngọc A15 thấy: Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng tình với đánh giá, nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm về tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo. Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4, Nguyễn Ngọc A15, Lê Văn A8 đều là người có nhân thân xấu, nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong việc tranh chấp việc làm mà các bị cáo đã tụ tập, gây gổ đánh nhau làm mất an ninh trật tự tại khu vực, chứng tỏ các bị cáo coi thường pháp luật. Do đó, các bị cáo không đủ điều kiện để được hưởng án treo, nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo A15 đã tích cực hợp tác với Công an phường KQ trong việc phát hiện đối tượng Nguyễn Văn A28 có hành vi tàng trữ 0,226g ma túy loại Heroin vào ngày 12/4/2022 nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo A15 có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, phạm tội với vai trò giúp sức không đáng kể, nên có đủ căn cứ cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt; bị cáo Phùng Văn A có mẹ đẻ là bà Đỗ Thị A2, bố là ông Phùng Kim A22 đều là những người có nhiều A22 tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nên được tặng huy chương kháng chiến là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự chưa được áp dụng; bị cáo Nguyễn Hải A4 trong quá trình công tác có nhiều A22 tích được Ban Chấp hành Trung ương Hội nông dân Việt Nam tặng Bằng khen và có A22 tích cứu giúp cháu Phạm Thị A24 khỏi bị đuối nước, được Công an xã HH xác nhận tại công văn ngày 14/10/2022; đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, mà cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo A, A4, A15 đã tự nguyện nộp số tiền án phí hình sự sơ thẩm chứng tỏ cả ba bị cáo đều thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo A8 có ông nội là Lê Văn A29 có nhiều A22 tích trong cuộc kháng chiến chống pháp được tặng huân chương kháng chiến, các bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn, nên có căn cứ giảm cho cả bốn bị cáo một phần hình phạt để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm hình phạt cho bị cáo A, A4 bị cáo là có căn cứ.

[5] Về án phí: Các bị cáo không được chấp nhận kháng cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, các bị cáo được chấp nhận một phần kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Ghi nhận các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4, Nguyễn Ngọc A15 đã nộp đủ án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Liễu Trường A12; chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ngọc A15; Phùng Văn A, Lê Văn A8, Nguyễn Sơn A17; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 84/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc; cụ thể:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải A4, Phùng Văn A, Lê Văn A8, Liễu Trường A12, Nguyễn Ngọc A15 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phùng Văn A 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, u khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Hải A4 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn A8 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Liễu Trường A12 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc A15 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Liễu Trường A12, phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm; các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4, Lê Văn A8, Nguyễn Ngọc A15 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Ghi nhận các bị cáo Phùng Văn A, Nguyễn Hải A4 và Nguyễn Ngọc A15 đã nộp đủ án phí hình sự sơ thẩm tại các biên lai số 0004080, 0004081, 0004082 cùng ngày 19/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Phúc.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số: 84/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3846
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 104/2023/HS-PT

Số hiệu:104/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về