Bản án về tội đánh bạc, về tội tổ chức đánh bạc số 199/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 199/2022/HS-ST NGÀY 10/11/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC, VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 178/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2022 đối với các bị cáo:

1) SỲ VĨNH L, (Tên gọi khác: Mười hai) sinh năm 1977 tại Đ. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm rẫy. Trình độ học vấn: 3/12. Dân tộc: Hoa. Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Sỳ Lỷ G và bà Lỷ A M. Có vợ: Đường Bắc K, sinh năm 1977 và 02 con, lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2011. Tiền án, tiền sự:

Không. Bị giam giữ từ ngày 09/5/2022 đến ngày 01/7/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. (Có mặt).

2) HOÀNG DUY Đ, (Tên gọi khác: Tào) sinh năm 1981 tại Đ. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ học vấn: 8/12. Dân tộc: Tày. Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Hoàng Kim Tr và bà Nguyễn Thị Kim Nh. Có vợ: Sầu Thị Ph, sinh năm 1987 và 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 12/3/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh. (Có mặt).

3) SỲ CHẮN C, (Tên gọi khác: Không) sinh năm 1961 tại Gia Lai. Giới tính: Nữ. HKTT và trú tại: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm rẫy. Trình độ học vấn: 7/12. Dân tộc: Hoa. Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Sỳ Lỷ Gi và bà Lỷ A M. Có chồng: La Văn T, sinh năm 1961 và 06 con, con lớn nhất sinh năm 1978, con nhỏ nhất sinh năm 1988. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 12/3/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh (Có mặt).

4) TRẦN VĂN Đ, (Tên gọi khác: Nho) sinh năm 1981 tại Đồng Tháp. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm rẫy. Trình độ học vấn: 6/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Trần Văn Ph và bà Lê Thị M. Có vợ: Dương Thị N, sinh năm 1983 và 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại điều tra. (Có mặt).

5) NGUYỄN HỮU L, (Tên gọi khác: Không) sinh năm 1982 tại Đ. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp 4, xã P, huyện Vĩnh Cữu, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Văn Th (đã chết) và bà Nguyễn Thị N. Có vợ: Phạm Thị Như Q, sinh năm 1987 và 02 con, lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 12/3/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh (Có mặt).

6) VÒNG SÁM M, (Tên gọi khác: A Kíu) sinh năm 1970 tại Đ. Giới tính: Nữ. HKTT và trú tại: Ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Làm rẫy. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Dân tộc: Hoa. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Vòng Cấm S và bà Lầu Trưởng M. Có chồng: Tằng Say H, sinh năm 1968 và 05 con, con lớn nhất, sinh năm 1992, con nhỏ nhất, sinh năm 2008. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 12/3/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh (Có mặt).

7) SỲ VĨNH N, (Tên gọi khác: Không) sinh năm 1974 tại Đ. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Công nhân. Trình độ học vấn: 07/12. Dân tộc: Hoa.Tôn giáo: không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Sỳ Lỷ Gi và bà Lỷ A M. Có vợ: Vàng Thị Huyền Ph, sinh năm 1979 (đã ly hôn), có 01 con, sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 12/3/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn Bảo lĩnh (Có mặt).

8) TẠ CHÌU V, (Tên gọi khác: Làn) sinh năm 1978 tại Đ. Giới tính: Nam. HKTT và trú tại: Ấp 3, xã S, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Lái xe. Trình độ học vấn: 06/12. Dân tộc: Hoa. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Tạ Hữu L và bà Tằng Chướng C. Có vợ: Lý Nhục K, sinh năm 1978 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2011. Tiền án: 01. Ngày 08/5/2021 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc”. Tiền sự: Không. Bị giam giữ từ ngày 18/2/2022 đến ngày 11/5/2022 thay đổi biện pháp ngăn chặn. (Có mặt).

* Người làm chứng: Anh La Ngọc D, sinh năm 1983 (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 18/02/2022, L đến gặp Sỳ Chắn C (là chị ruột của L) và hỏi thuê nhà của C ở số 6/5 ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ để tổ chức cho các con bạc đánh bạc và trả tiền thuê nhà cho C là 2.000.000 đồng thì C đồng ý. Sau đó L điện thoại rủ Tạ Chìu V, H gọi điện thoại rủ Nguyễn Hữu L, Đ gọi điện thoại rủ Vòng Sám M, H gọi điện thoại rủ Trần Văn Đ và chở Đ đến nhà C đánh bạc, ngoài ra còn có Sỳ Vĩnh N và một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân lai lịch) cũng đến nhà C đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc bằng hình thức “lắc tài xỉu” thắng thua bằng tiền. Dụng cụ đánh bạc là 01 bộ dụng cụ lắc tài xỉu gồm 01 đĩa sứ, 01 nắp nhựa và 03 hột xí ngầu (mỗi hột xí ngầu có 06 mặt thể hiện tính điểm từ 01 đến 06 điểm bằng các chấm trên mặt các hột xí ngầu). Hình thức đánh bạc như sau: Người làm cái cho 03 hột xí ngầu vào đĩa sứ rồi lấy nắp nhựa úp lên và lắc, sau khi lắc xong thì người làm cái đặt xuống chiếu bạc và không mở nắp nhựa để các con bạc tham gia đặt cược “tài” hoặc “xỉu” với tỷ lệ thắng thua trực tiếp với người làm cái là 1:1. Cách tính điểm “tài” là từ 11 điểm đến 18 điểm, “xỉu” là từ 03 điểm đến 10 điểm, sau khi các con bạc đặt tiền cược xong thì người làm cái mở nắp nhựa ra, căn cứ vào số điểm trên 03 hột xí ngầu có mặt trên cộng lại với nhau mà ra “tài” thì các con bạc đặt cược bên “tài” sẽ thắng số tiền đã cược, còn các con bạc đặt cược bên “xỉu” sẽ thua số tiền đã cược với nhà cái và ngược lại. Quá trình đánh bạc nếu có ván bạc nào có 03 hột xí ngầu có điểm số bằng nhau thì được gọi là “bão”, nếu “bão” ra tài thì người làm cái ăn hết số tiền của các con bạc đặt cược bên xỉu và trả tiền cược cho các con bạc đặt cược bên tài, số tiền còn lại người làm cái được hưởng, một phần thì đưa cho L. Mỗi ván các con bạc đặt cược số tiền từ 200.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Các đối tượng tham gia đánh bạc từ khoảng 19 giờ 30 phút đến 21 giờ 30 phút ngày 18/02/2022 thì bị Công an tỉnh Đ phối hợp với Công an huyện T phát hiện bắt giữ C, L, N, V, Đ và M, còn L, Hoàng, H, Đ và một số đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) bỏ chạy thoát.

Vật chứng thu giữ gồm: Số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm ngàn đồng) trên chiếu bạc; số tiền 10.900.000 đồng (mười triệu chín trăm ngàn đồng) trong người của các con bạc; 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu gồm: 01 đĩa sứ, 01 nắp nhựa và 03 hột xí ngầu; 05 điện thoại di động các loại gồm: 01 điện thoại hiệu Iphone 5, 01 điện thoại hiệu Oppo, 01 điện thoại hiệu Vivo màu xanh, 01 điện thoại hiệu Vivo màu đen; 01 điện thoại hiệu Nokia màu xanh; 04 xe mô tô biển số 60B8- xxxxx; 60B8- xxxxx; 60B8- xxxxx; 59H1- xxxxx (bút lục 06- 09).

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận:

+ Trần Văn Đ đem theo 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu và sử dụng số tiền 5.000.000 đồng để đánh bạc. Đ đánh bạc nhiều ván với vai trò là người cầm cái trực tiếp ăn thua với các con bạc, khi bị bắt Đ thắng được số tiền 400.000 đồng, khi lực lượng Công an vào bắt quả tang, Đ để lại số tiền 5.400.000 đồng tại chiếu bạc và bỏ chạy thoát.

+ Sỳ Vĩnh L ngoài việc chuẩn bị địa điểm, phân công người rủ các con bạc đến đánh bạc và người chuẩn bị đồ ăn, nước uống, đóng mở cửa cho các con bạc ra vào sòng bạc để thu tiền xâu, ngày 18/02/2022 L còn đem theo và sử dụng số tiền 2.000.000 đồng để đánh bạc. L đánh bạc nhiều ván với vai trò con bạc, khi lực lượng Công an vào bắt quả tang, L thua số tiền 500.000 đồng, còn lại số tiền 1.500.000 đồng L để lại chiếu bạc và bỏ chạy thoát.

+ Hoàng Duy Đ đem theo và sử dụng số tiền 4.000.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc nhiều ván với vai trò là con bạc, mỗi ván đặt cược từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Quá trình đánh bạc bị thua 2.700.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 1.300.000 đồng trên người và xe mô tô biển số 59H1- xxxxx. Ngoài ra quá trình L tổ chức đánh bạc thì Đ có nhiệm vụ chuẩn bị đồ ăn, nước uống, đóng mở cửa cho các con bạc và giữ tiền xâu, đến khi đánh bạc kết thúc thì Đ trả tiền thuê nhà cho C (đưa C bao nhiêu tiền thì theo sự chỉ đạo của L), số tiền còn lại Đ đưa lại cho L. Đ đã 02 lần giúp L tổ chức sòng bạc và là người trả C tiền thuê nhà với tổng số tiền là 2.700.000 đồng. Trong 02 lần giúp L tổ chức đánh bạc thì L cho Đ số tiền 2.000.000 đồng tiền công. Ngày 18/02/2022 chưa có ván bạc nào “bão” nên Đ chưa thu được tiền xâu.

+ Tạ Chìu V đem theo và sử dụng số tiền 4.500.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc nhiều ván với vai trò là con bạc, mỗi ván đặt cược từ 200.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Quá trình đánh bạc bị thua số tiền 2.500.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 2.000.000 đồng trên người và 01 điện thoại di động hiệu Vivo.

+ Nguyễn Hữu L đem theo và sử dụng số tiền 3.500.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc nhiều ván với vai trò là con bạc, mỗi ván đặt cược từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Quá trình đánh bạc thắng được 2.500.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 6.000.000 đồng trên người và 01 điện thoại di động hiệu Nokia.

+ Vòng Sám M đem theo và sử dụng số tiền 2.400.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc nhiều ván với vai trò là con bạc, mỗi ván đặt cược từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Quá trình đánh bạc bị thua 800.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ số tiền 1.600.000 đồng trên người và 01 điện thoại di động hiệu Oppo.

+ Sỳ Vĩnh N đem theo và sử dụng số tiền 2.000.000 đồng để đánh bạc, tham gia đánh bạc nhiều ván với vai trò là con bạc, mỗi ván đặt cược từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng. Quá trình đánh bạc bị thua hết số tiền 2.000.000 đồng, khi bị bắt bị thu giữ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 và 01 xe mô tô biển số 60B8- 362.46.

Tổng số tiền các đối tượng sử dụng vào mục đích đánh bạc là 29.400.000 đồng (Hai mươi chín triệu bốn trăm ngàn đồng).

Ngoài ra quá trình điều tra Sỳ Vĩnh L và Hoàng Duy Đ còn khai nhận đã 02 lần thuê nhà của Sỳ Chắn C để tổ chức sòng bạc (không nhớ thời gian và nhân thân lai lịch các đối tượng tham gia đánh bạc, không nhớ số người đánh bạc và không nhớ số tiền các đối tượng dùng vào việc đánh bạc). Sỳ Vĩnh L và Hoàng Duy Đ thu lợi số tiền 4.000.000 đồng, Sỳ Chắn C thu lợi số tiền 2.700.000 đồng vì vậy không có căn cứ để xử lý hành vi của L, Đ, C vào những ngày trước đó.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Sỳ Vĩnh L, Sỳ Chắn C, Hoàng Duy Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N, Tạ Chìu V và Trần Văn Đ để điều tra. Quá trình điều tra các bị can đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên (thể hiện tại bút lục số: 06- 10; 184-203; 211-233; 245-257; 267-288; 294-312; 324- 339; 353- 364; 372-378).

Quá trình điều tra, C đã tự nguyện giao nộp số tiền 2.700.000 đồng, Đ nộp lại số tiền 2.000.000 đồng, L nộp số tiền 2.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính. Ngoài ra L còn giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Oppo sử dụng vào việc phạm tội.

- Xử lý vật chứng:

+ Đối với số tiền 29.400.000 đồng (Hai mươi chín triệu bốn trăm ngàn đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc và 6.700.000 đồng (sáu triệu bảy trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính do các bị cáo giao nộp và 01 điện thoại di động hiệu Oppo của L sử dụng vào việc phạm tội đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công.

+ Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu là công cụ để đánh bạc đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 05 điện thoại di động các loại và xe mô tô biển số 60B8- xxxxx thu giữ của Nam; xe mô tô biển số 60B8- xxxxx thu giữ của M, các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã xử lý vật chứng trả lại cho các bị cáo.

+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 60B8- xxxxx, quá trình điều tra xác định xe do Võ Văn H đứng tên sở hữu. Ngày 18/02/2022, Hòa điều khiển xe đến nhà C để tìm đối tượng tên H (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để đòi nợ, khi đến nơi thì thấy các đối tượng đang tham gia đánh bạc, H không tham gia đánh bạc nên Cơ quan CSĐT Công an huyện T không xử lý đồng thời trả lại xe cho H (bút lục 433-437).

+ Đối với chiếc xe mô tô biển số 59H1- xxxxx thu giữ của Đ, hiện chưa làm rõ được nguồn gốc và chủ sở hữu, cơ quan điều tra tách ra tiếp tục xác minh làm rõ có căn cứ xử lý sau.

Tại cáo trạng số: 176/CT-VKSTB ngày 28 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố các bị cáo:

+ Sỳ Vĩnh L về tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 và “Tổ chức đánh bạc” theo các điểm c, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

+ Hoàng Duy Đ về tội: “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 và “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự.

+ Sù Chắn C về tội: “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

+ Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N và Tạ Chìu V về tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321, các điểm c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo:

+ Sỳ Vĩnh L từ 80.000.000 đồng – 100.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc”; từ 40.000.000 đồng – 45.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” - Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321, điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo:

+ Hoàng Duy Đ từ 50.000.000 đồng – 70.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc”; từ 35.000.000 đồng – 40.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo:

+ Sỳ Chắn C từ 50.000.000 đồng – 70.000.000 đồng về tội “Tổ chức đánh bạc” - Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo:

+ Trần Văn Đ từ 40.000.000 đồng – 45.000.000 đồng.

+ Nguyễn Hữu L từ 30.000.000 đồng – 35.000.000 đồng.

+ Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N mỗi bị cáo từ 25.000.000 đồng – 30.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật hình sự,

+ Xử phạt bị cáo Tạ Chìu V từ 06 – 08 tháng tù.

- Xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Tòa tuyên:

+ Tịch thu sung công: Số tiền 29.400.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc; 6.700.000 đồng tiền thu lợi bất chính do các bị cáo giao nộp và 01 điện thoại di động hiệu Oppo của L sử dụng vào việc phạm tội.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu là công cụ để đánh bạc.

- Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ Luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng và phù hợp với nội dung bản cáo trạng. Qua đó đã có đủ căn cứ để kết luận:

Vào ngày 18/02/2022, Sỳ Vĩnh L và Hoàng Duy Đ đã có hành vi thuê nhà của Sỳ Chắn C tại ấp T, xã S, huyện T, tỉnh Đ để tổ chức cho các con bạc đến địa điểm đánh bạc, đồng thời phân công người chuẩn bị đồ ăn, nước uống, đóng, mở cửa cho các con bạc trong quá trình các con bạc ra vào sòng bạc nhằm mục đích để hưởng lợi. Khi Sỳ Vĩnh L, Hoàng Duy Đ, Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N, Tạ Chìu V và một số đối tượng (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đang thực hiện hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức lắc tài xỉu thì bị Công an tỉnh Đ phối hợp với Công an huyện T bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc là 29.400.000 đồng.

+ Đối với Sỳ Chắn C có hành vi cho L và Đ thuê địa điểm là nhà của mình tổ chức sòng bạc để hưởng lợi. Hành vi của Sỳ Chắn C đã phạm vào tội: “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự;

+ Hành vi của Sỳ Vĩnh L đã phạm vào các tội: “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 và các điểm c, d khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự;

+ Hành vi của Hoàng Duy Đ đã phạm vào các tội: “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 và điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự;

+ Hành vi của Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N và Tạ Chìu V đã phạm vào tội: “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự;

[2] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Tạ Chìu V có 01 tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Các bị cáo còn lại không có tình tiết tăng nặng.

[3] Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo nhận thấy, các bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an toàn và trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn trật tự tại địa phương. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Sỳ Vĩnh L đã thuê địa điểm là nhà bị cáo Sỳ Chắn C để làm địa điểm đánh bạc mục đích để thu tiền xâu, bị cáo Đ tham gia với vai trò giúp sức cho bị cáo L trực tiếp thu tiền xâu từ các con bạc sau đó giao lại cho bị cáo L; bị cáo Tạ Chìu V đã bị xét xử về tội “Đánh bạc” chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, do đó việc cách ly bị cáo Tạ Chìu V ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết; bị cáo Trần Văn Đ là người cầm cái trực tiếp thắng thua với các con bạc, sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất nên có mức hình phạt cao hơn các bị cáo còn lại.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Các bị cáo Sỳ Vĩnh L, Hoàng Duy Đ, Sỳ Chắn C, Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N đều có nhân thân tốt vì không có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, thể hiện sự ăn năn hối cải, đa số các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, các con còn nhỏ, bị cáo N là lao động duy nhất vì một mình trực tiếp nuôi con còn nhỏ, bị cáo Đ đang nuôi dưỡng một số người già không nơi nương tựa, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho các bị cáo.

[5] Xét đề nghị nêu trên của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thì thấy phần lớn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử vì: Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ngoài lần phạm tội này các bị cáo: Sỳ Vĩnh L, Hoàng Duy Đ, Sỳ Chắn C, Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương, có nơi cư trú rõ ràng và có khả năng tự cải tạo, có nhân thân tốt, sử dụng tiền đánh bạc không nhiều. Các bị cáo sử dụng tiền làm công cụ, phương tiện và mục đích phạm tội nên áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với các bị cáo Sỳ Vĩnh L, Hoàng Duy Đ, Sỳ Chắn C, Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N là phù hợp, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ Đối vơi số tiền 29.400.000 đồng (Hai mươi chín triệu bốn trăm ngàn đồng) là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc, số tiền 6.700.000 đồng (sáu triệu bảy trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính do các bị cáo giao nộp và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ của L sử dụng là vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu là công cụ để đánh bạc cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với Bế Quang H và Hà Thanh H sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định truy nã, khi nào bắt được xử lý sau.

[8] Đối với các đối tượng tham gia đánh bạc và bỏ chạy thoát khi lực lượng Công an bắt quả tang, hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ có căn cứ xử lý sau.

[9] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, các điểm c, d khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 - Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) + Tuyên bố bị cáo: Sỳ Vĩnh L phạm các tội “Đánh bạc” và “Tổ chức Đánh bạc”

+ Xử phạt bị cáo Sỳ Vĩnh L 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu) về tội “Đánh bạc” và 80.000.000 đồng (tám mươi triệu) về tội “Tổ chức đánh bạc”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là: 115.000.000 đồng (một trăm mười lăm triệu đồng).

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 - Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

+ Tuyên bố bị cáo: Hoàng Duy Đ phạm các tội “Đánh bạc” và “Tổ chức Đánh bạc”

+ Xử phạt bị cáo Hoàng Duy Đ 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu) về tội “Đánh bạc” và 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu) về tội “Tổ chức đánh bạc”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là: 85.000.000 đồng (tám mươi lăm triệu đồng).

3. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

+ Tuyên bố bị cáo: Sỳ Chắn C phạm tội “Tổ chức Đánh bạc”

+ Xử phạt bị cáo Sỳ Chắn C 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).

4. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

+ Tuyên bố các bị cáo: Trần Văn Đ, Nguyễn Hữu L, Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N phạm tội “Đánh bạc”.

+ Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ số tiền: 45.000.000 đồng (bốn mươi lăm triệu đồng).

+ Xử phạt bị cáo: Nguyễn Hữu L số tiền: 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).

+ Xử phạt các bị cáo Vòng Sám M, Sỳ Vĩnh N mỗi bị cáo số tiền: 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

5. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52 , Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Tạ Chìu V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành nhưng được trừ đi thời gian bị cáo bị giam, giữ (từ ngày 18/2/2022 đến ngày 11/5/2022).

6. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015:

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 36.100.000 đồng (ba mươi sáu triệu một trăm ngàn đồng) và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đỏ.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ sử dụng lắc tài xỉu là công cụ để đánh bạc.

(Tiền, vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T theo Biên lai thu tiền số 0005298 ngày 03/10/2022 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2022).

7. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo đều phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho các bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc, về tội tổ chức đánh bạc số 199/2022/HS-ST

Số hiệu:199/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về