Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 789/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 789/2022/HS-PT NGÀY 31/10/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 427/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Tạ Quang H và đồng phạm phạm các tội “Tổ chức đánh bạc”, “Đánh bạc” do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 01 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Tạ Quang H, sinh năm 1996; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quang H1, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1970; có vợ là Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 2000, chưa có con.

Tiền án: Tại Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xử phạt Tạ Quang H 06 tháng tù về tội về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử tháng 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/7/2021, đến ngày 29/10/2021 được thay thế bằng biện pháp “ Bảo lĩnh”. Bị cáo hiện tại ngoại. Có mặt.

2. Nguyễn Văn G, sinh nãm 1987; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1958; có vợ là Đào Thị D sinh năm 1991 có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Tại Bản án số 28/2008/HSST ngày 22/5/2008 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh L xử phạt Nguyễn Văn G 05 năm tù về tội “Lưu hành tiền giả” (đã chấp hành xong bản án, được xoá án tích) theo Giấy chứng nhận số 04, ngày 10/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh L.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/7/2021 đến ngày 20/7/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo hiện tại ngoại. Có mặt.

3. Nguyễn Xuân P, sinh năm 1988; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Y, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1966; có vợ là Nguyễn Thị P1, sinh năm 1994 có 02 con, lớn sinh năm 2014; nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tại Bản án số 45/2017/HSPT, ngày 27/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt Nguyễn Xuân P 12 tháng tù về tội “Gá bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (đã chấp hành xong nghĩa vụ nộp tiền án phí, tiền phạt bổ sung tháng 9/2017).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/7/2021 đến ngày 17/7/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo hiện tại ngoại. Có mặt.

4. Tạ Huy Q, sinh năm 1966; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã N1, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Huy T1, sinh năm 1936 (đã chết) và bà Vương Thị H3, sinh năm 1941; có vợ là Trần Thị T2, sinh năm 1966 có 03 con, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993.

Tiền án: Tại Bản án số 33/HSST/2018, ngày 25/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B, xử phạt Tạ Huy Q 15 (mười năm) tháng tù về tội “ Tổ chức đánh bạc” (đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/8/2019). (Tại Bản án này xác định Tạ Huy Q không có tiền án, tiền sự); tiền sự: không.

Nhân thân: Năm 2003, bị Công an huyện T, tỉnh B xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”; năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xử phạt 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”; năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Đánh bạc”; tại Bản án số 17/2012/ HSST ngày 04/4/2012 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B xử phạt 5 tháng tù về tội “Đánh bạc” (đã chấp hành xong Bản án).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/7/2021 đến ngày 20/7/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo hiện tại ngoại. Có mặt.

5. Nguyễn Hải T3, sinh năm 1988; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ là ai) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1956; có vợ là Nguyễn Thị S, sinh năm 1990 có 02 con, lớn sinh năm 2010; nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 01/4/2020, bị Công an xã G1, huyện T xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Chấp hành xong Quyết dịnh xử phạt ngày 17/4/2020.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/7/2021 đến ngày 20/7/2021 được thay thế bằng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo hiện tại ngoại. Có mặt.

Trong vụ án còn có các bị cáo khác không kháng cáo; các bị cáo không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/7/2021, Nguyễn Hải T3, Nguyễn Xuân P, Hoắc Công K1, Nguyễn Ngọc S1 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B đầu thú về hành vi đánh bạc ăn tiền bằng hình thức cá độ bóng đá với Tạ Quang H và Nguyễn Văn G. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Tạ Quang H và Nguyễn Văn G.

Ngày 12/7/2021, Tạ Huy Q, Nguyễn Huy B2, Nguyễn Phú G2 và Nguyễn Như C đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B đầu thú về hành vi đánh bạc ăn tiền bằng hình thức cá độ bóng đá với Tạ Quang H.

Quá trình điều tra, xác định được như sau: Khoảng giữa tháng 6/2021, Tạ Quang H sử dụng điện thoại di động có kết nối Internet đăng trang mạng cá độ bóng đá và mua tài khoản cá độ bóng đá “SCKP”, mật khẩu là “ZZxxl 122@” với giá 1 yên = 5.000 đồng (H không nhớ trong tài khoản tổng là bao nhiêu yên). Sau khi mua được tài khoản tổng, H vào trang web Wabi88.com đăng nhập và đổi tên là “Bacninh999” và chia thành 03 trang bóng tổng, có tài khoản gồm SCKP04, SCKP06 và SCKP07. Tiếp đó, H chia thành các tài khoản nhỏ (tài khoản dùng để đặt cược cá độ bóng đá) và bán cho các đối tượng có nhu cầu, để đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá với H. Quá trình điều tra xác định, H bán cho Nguyễn Văn G 02 tài khoản gồm: SCKP04005 và SCKP04007, mật khẩu “Abcdl234”, có số tiền giới hạn là 500 yên, giá 1 yên = 30.000 đồng, tương ứng là 15.000.000 đồng; bán cho Tạ Huy Q tài khoản SCKP0400M, mật khẩu “Abcdl234”, có tiền giới hạn là 500 yên, giá 1 yên = 50.000 đồng, tương ứng là 25.000.000 đồng; bán cho Nguyễn Huy B2 tài khoản SCKP06004, mật khẩu là “Abcdl23”, có số tiền giới hạn là 400 yên, giá 1 yên = 50.000 đồng, tương ứng là 20.000.000 đồng; bán cho Nguyễn Hải T3 tài khoản SCKP04008, mật khẩu là “Abcl23”, có sổ tiền giới hạn là 400 yên, giá 1 yên = 50.000 đồng, tương ứng là 20.000.000 đồng, bán cho Nguyễn Phú G2 tài khoản SCKP04001, mật khẩu là “Abcdl23”, có số tiền giới hạn là 400 yên, giá 1 Yên = 50.000 đồng, tương ứng là 20.000.000 đồng; bán cho Nguyễn Ngọc S1 tài khoản SCKP07002, mật khẩu là “Abcl23456”, có số tiền giới hạn là 200 yên, giá 1 yên = 100.000 đồng, tương ứng là 20.000.000 đồng. Nguyễn Văn G mua của H 02 tài khoản là: SCKP04005 và SCKP04007 rồi bán lại cho Nguyễn Xuân P tài khoản SCKP04005 với giá 1 yên = 100.000 đồng, tương ứng là 50.000.000 đồng và bán cho Hoắc Công K1 tài khoản SCKP04007, giá 1 yên = 100.000 đồng, tương ứng là 50.000.000 đồng. Sau khi được H và Giang bán cho tài khoản cá độ bóng đá thì các đối tượng trên dùng điện thoại di động có kết nối mạng internet, đăng nhập vào trang “web cuoc8899.net” hoặc “Fb88.com” và đăng nhập tài khoản đã mua của H và G để đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá với Tạ Quang H và Nguyễn Văn G. Ngoài ra, Tạ Quang H còn trực tiếp cá độ bóng đá với Nguyễn Như C.

Khi tham gia đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá, trong 01 trận bóng đá các đối tượng trực tiếp đặt cược một hoặc nhiều kèo cá độ, tức là một trận bóng đá có thể đặt cược 01 hoặc nhiều lần (còn gọi là mã cược), mỗi mã cược có tỷ lệ được, thua khác nhau do nhà cái (trang web khi đăng nhập tài khoản cá độ bóng đá) quy định sẵn, tiền đánh bạc được tính theo điểm (yên); mỗi 1 yên được quy đổi ra tiền Việt Nam theo sự thỏa thuận giữa đối tượng cấp (bán) tài khoản và đối tượng sử dụng tài khoản (mua) để cá độ bóng đá, trong mỗi tài khoản có hạn mức số tiền (yên) tối đa nhất định, sử dụng để cá độ (gọi là hạn mức giới hạn tối đa), khi hết hạn mức đó muốn chơi tiếp thì đề nghị người cấp (bán) trang bóng chuyển điểm (yên) vào tài khoản để tiếp tục cá độ được.

Kết quả thắng, thua của mỗi lần (mã) cược sẽ được trang mạng cá cược tự động xác định trên tài khoản cá độ. Căn cứ vào tỷ lệ, số tiền đặt cược, số tiền thắng, thua thể hiện trên tài khoản cá độ H, Giang và các đối tượng sẽ quy đổi thành tiền Việt Nam để thanh toán thắng, thua với nhau theo thoả thuận.

Hành vi cụ thể của từng bị cáo như sau:

1. Hành vi phạm tội của Tạ Quang H:

Tạ Quang H mua tài khoản tổng cá độ bóng đá là “SCKP” với giá 01 yên = 5.000 đồng, sau đó H chia thành 03 trang tổng nhỏ gồm SCKP04, SCKP06 và SCKP07. Từ đây, H chia thành các tài khoản nhỏ (tài khoản dùng để cá cược bóng đá) và bán cho các đối tượng đánh bạc cá độ bóng đá ăn tiền với H. Trong đó, H bán cho Nguyễn Văn G 02 tài khoản SCKP04005 và SCKP04007 đều với giá 01 yên = 30.000 đồng, sau đó, Nguyễn Văn G bán lại cho Nguyễn Xuân P tài khoản SCKP04005 bán cho Hoắc Công K1 tài khoản SCKP04007 đều với giá 01 yên = 100.000 đồng. K1 đã sử dụng tài khoản SCKP04007, Nguyễn Xuân P đã sử dụng tài khoản SCKP04005 để đặt cược, đánh bạc với Giang với giá 01 yên là 100.000 đồng còn H thanh toán tiền đánh bạc với Nguyễn Văn G tại tài khoản SCKP04005 và SCKP04007 với giá 01 yên là 30.000 đồng. Vì vậy, số tiền Tạ Quang H tổ chức đánh bạc là số tiền Nguyễn Văn G phải thanh toán cho Tạ Quang H theo 02 tài khoản SCKP04005, SCKP04007 mà Nguyễn Văn G mua của H, sau đó bán cho Nguyễn Xuân P và Hoắc Công K1. Căn cứ vào các lần (mã) cá cược tại tài khoản SCKP04007 và tài khoản SCKP04005, xác định: Tổng số tiền Hoắc Công K1 đánh bạc trong 60 lần ở 02 trận bóng đá là: tiền K1 đặt cược 1.515,9 yên + tiền K1 thắng cược 234,15 yên =1.750,05 yên X 30.000 đồng/1 yên = 52.501.500 đồng và tổng số tiền Nguyễn Xuân P đánh bạc trong 39 lần ở 04 trận bóng đá là: tiền Phong đặt cược 1.027,2 yên) + tiền Phong thắng cược 344,65 yên) = 1.371,85 yên X 30.000 đồng/1 yên = 41.155.500 đồng. Tổng cộng tiền tổ chức đánh bạc của Tạ Quang H là: 52.501.500 đồng + 41.155,500 đồng = 93.657.000 đồng. H bán cho Tạ Huy Q tài khoản SCKP0400M, bán cho Nguyễn Huy B2 tài khoản SCKP06004, bán cho Nguyễn Hải T3 tài khoản SCKP04008, bán cho Nguyễn Phú G2 tài khoản SCKP04001; bán cho Nguyễn Ngọc S1 tài khoản SCKP07002. Quân, Bắc, Tân, Nguyễn Phú G2 và Sơn đã sử dụng tài khoản cá độ mua của H để đặt cược, đánh bạc ăn tiền bằng hình thức cá độ bóng đá với H. Ngoài ra, Tạ Quang H còn thoả thuận trực tiếp cá độ bóng đá ăn tiền với Nguyễn Như C. Vì vậy số tiền H đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá là tổng số tiền mà Q, B1, T3, Nguyễn Phú G2, S1, C đã đánh bạc với H. Căn cứ vào các lần (mã) cá cược trên tài khoản cá độ của Q, B1, T3, Phú G2, S1 và việc cá độ của Công, số tiền đánh bạc của H là: 46.419.000 đồng (Q) + 40.640.000 đồng (T3) + 78.884.100 đồng (B1) + 149.850.000 đồng (Nguyễn Phú G2) + 77.315.000 đồng (S1) + 15.000.000 đồng (C) = 408.108.100 đồng.

2. Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn G:

Khong cuối tháng 6/2021, Nguyễn Văn G mua của Tạ Quang H 02 trang bóng có tài khoản là “SCKP04005” và “SCKP04007” với giá 1 yên = 30.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Văn G bán lại cho Nguyễn Xuân P tài khoản “SCKP04005” và bán cho Hoắc Công K1 tài khoản “SCKP04007” đều với giá 1 yên = 100.000 đồng, tài khoản giới hạn là 500 yên tương ứng là 50.000.000 đồng. K1 và P đã sử dụng tài khoản mua của Nguyễn Văn G để đặt cược đánh bạc ăn tiền bằng hình thức cá độ bóng đá với Giang, tiền đánh bạc của K1, P với G1 được tính theo giá 01 yên là 100.000 đồng. Vì vậy số tiền Nguyễn Văn G tổ chức đánh bạc là tổng số tiền K1 và P đã đánh bạc cá độ bóng đá với G tại các tài khoản “SCKP04005” và “SCKP04007”, gồm: tổng số tiền Hoắc Công K1 đánh bạc trong 60 lần ở 02 trận bóng đá nêu trên là: tiền Hoắc Công K1 đặt cược 1.515,9 yên + tiền K1 thắng cược 234,15 yên =1.750,05 yên X 100.000 đồng/1 yên = 175.005.000 đồng cộng với tổng số tiền Nguyễn Xuân P đánh bạc trong 39 lần ở 04 trận bóng đá trên là: tiền Nguyễn Xuân P đặt cược:1.027,2 yên + tiền Nguyễn Xuân P thắng cược 344,65 yên = 1.371,85 yên X 100.000 đồng/1 yên = 137.185.000 đồng = 312.190.000 đồng. (BL: 282 đến 300, 306 đến 316, 317 đến 320, 327 đến 334).

Nguyễn Văn G thanh toán tiền đánh bạc với Tạ Quang H tại các tài khoản: “SCKP04005” và “SCKP04007” với giá 01 yên là 30.000 đồng đối với số tiền đánh bạc của K1 và P tại các tài khoản “ SCKP04005” và “SCKP04007, như vậy mỗi yên Nguyễn Văn G được hưởng lợi 70.000 đồng. Tại tài khoản “SCKP04007” trong trận bóng đá giữa đội Thụy Điển và đội Ukraine Hoắc Công K1 đặt cược là 804,35 yên, K1 thắng 149,15 yên, tiền chênh lệch thắng thua là 804,35 yên - 149,15 yên = 655,2 yên, G2 được hưởng lợi là 655,2 yên X 70.000 đồng/1 yên = 45.864.000 đồng; trong trận bóng đá giữa đội Anh và đội Đức K1 đặt cược là 711,55 yên , K1 thắng 85 yên, tiền chênh lệch thắng thua là 711,55 yên - 85 yên = 626,55 yên X 70.000 đồng/1 yên = 43.858.500 đồng. Đối với 04 trận bóng đá mà Nguyễn Xuân P đánh bạc tại tài khoản “ SCKP04005”, sau khi trừ đi giữa tiền Nguyễn Xuân P đặt cược và tiền Nguyễn Xuân P thắng cược thì số tiền Nguyễn Văn G hưởng lợi đều dưới 50 triệu đồng.

3. Hành vi phạm tội của Nguyễn Xuân P:

Đầu tháng 7/2021, Nguyễn Xuân P mua của Nguyễn Văn G tài khoản cá độ bóng đá “SCKP04005”, mật khẩu “Abcdl234”, có số tiền giới hạn là 200 yên, giá 01 yên = 100.000 đồng, tương ứng là 20.000.000 đồng. Từ ngày 03/7/2021 đến ngày 10/7/2021, Nguyễn Xuân P đã sử dụng tài khoản cá độ “ SCKP04005” đặt cược 39 lần tại 04 trận bóng đá để đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá với Nguyễn Văn G, cụ thể như sau:

* Trận 1: Ngày 10/7/2021, trong trận bóng đá giữa đội Jeonbuk Hyundai Motors và đội Gamba Osaka, thuộc giải vô địch các câu lạc bộ Châu Á, diễn ra ngày 10/7/2021 là: 14.500.000 đồng.

* Trận 2: Ngày 07/7/2021, trong trận bóng đá giữa đội Anh và đội Đan Mạch, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 07/7/2021 là: 42.325.000 đồng.

* Trận 3: Ngày 07/7/2021, trong trận bóng đá giữa đội Ý và đội Tây Ban Nha, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 07/7/2021 là: 58.160.000 đồng.

* Trận 4: Ngày 03/7/2021, trong trận bóng đá giữa đội Anh và đội Ukraine, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 03/7/2021 là: 22.200.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền Nguyễn Xuân P đánh bạc trong 39 lần ở 04 trận bóng đá trên là: 137.185.000 đồng, trong đó có 01 trận bóng đá số tiền đánh bạc của P trên 50 triệu đồng, 03 trận bóng đá số tiền đánh bạc của P từ 05 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng. Nguyễn Xuân P và Nguyễn Văn G chưa thanh toán với nhau tiền đánh bạc.

4. Hành vi phạm tội của Tạ Huy Q:

Khong giữa tháng 6 năm 2021, Tạ Huy Q mua của Tạ Quang H tài khoản cá độ bóng đá “SCKP0400M”, mật khẩu “Abcdl234” với giá 1 yên “ 50.000 đồng, tài khoản giới hạn là 500 yên tương ứng là 25.000.000 đồng. Từ ngày 23/6/2021 đến ngày 27/6/2021, Tạ Huy Q đã sử dụng tài khoản “SCKP0400M” đặt cược 35 lần tại 06 trận bóng đá để đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá với Tạ Quang H, cụ thể như sau:

* Trận 1: Ngày 27/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Bỉ và đội Bồ Đào Nha, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 27/6/2021 là: 8.923.500 đồng.

* Trận 2: Ngày 27/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Hà Lan và đội Cộng Hòa Séc, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 27/6/2021 là: 14.007.500 đồng.

* Trận 3: Ngày 26/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Ý và đội Áo, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 26/2/2021 là: 8.598.000 đồng.

* Trận 4: Ngày 26/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Đan Mạch và đội Xứ Wales, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 26/6/2021 là: 6.845.000 đồng.

* Trận 5: Ngày 23/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Đức và đội Hungary, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 23/6/2021 là: 3.875 000 đồng.

* Trận 6: Ngày 23/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Pháp và đội Bồ Đào Nha, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 dỉễn ra ngày 23/6/2021 là: 4.170.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền Tạ Huy Q đánh bạc 35 lần trong 06 trận bóng đá là: 46.419.000 đồng, trong đó có 04 trận bóng đá số tiền đánh bạc từ 05 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, 02 trận bóng đá số tiền đánh bạc dưới 05 triệu đồng. Tạ Huy Q và Tạ Quang H chưa thanh toán với nhau tiền đánh bạc.

5. Hành vi phạm tội của Nguyễn Hải T3:

Khong giữa tháng 6/2021, Nguyễn Hải T3 mua của Tạ Quang H tài khoản cá độ bóng đá “SCKP04008:, mật khẩu “ABC 123” với giá 1 yên = 100.000 đồng, tài khoản giới hạn là 500 yên, tương ứng là 50.000.000 đồng. Từ ngày 18/6/2021 đến ngày 20/6/2021. Nguyễn Hải T3 đã sử dụng tài khoản “SCKP 04.008” đặt cược 20 lần tại 06 trận bóng đá để đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá với H như sau:

* Trận 1: Ngày 20/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Ý và đội Xứ Wales, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 20/6/2021 là: 19.670.000 đồng.

* Trận 2: Ngày 19/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Tây Ban Nha và đội Ba Lan, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 19/6/2021 là: 4.800.000 đồng.

* Trận 3: Ngày 19/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Đức và đội Bồ Đào Nha, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 19/6/2021 là: 4.460.000 đồng.

* Trận 4: Ngày 19/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Hungary và đội Pháp, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 19/6/2021 là: 3.710.000 đồng.

* Trận 5: Ngày 18/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Anh và đội Scotland, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 18/6/2021: Tân 01 lần đặt cược; tiền cược là 30 yên; kết quả thua 30 yên. số tiền Tân đánh bạc với H trong trận bóng này là: 30 yên X 100.000 đồng = 3.000.000 đồng.

* Trận 6: Ngày 18/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Tây Ban Nha và đội Thụy Điển, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 18/6/2021: Nguyễn Hải T3 01 lần đặt cược; tiền cược là 30 yên, kết quả thua 30 yên. Số tiền Nguyễn Hải T3 đánh bạc với Tạ Quang H trong trận bóng này là: 30 yên X 100.000 đồng = 3.000.000 đồng.

* Trận 7: Ngày 20/6/2021, trong trận bóng đá giữa đội Thuỵ Sỹ và đội Thổ Nhĩ Kỳ, thuộc giải vô địch Châu Âu EURO 2020 diễn ra ngày 20/6/2021: Số tiền Nguyễn Hải T3 đánh bạc với Tạ Quang H trong trận bóng này là: 2.000.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền 20 lần Nguyễn Hải T3 đánh bạc trong 07 trận bóng đá là: 40.640.000 đồng, trong đó có 01 trận bóng đá số tiền đánh bạc từ 05 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, 06 trận bóng đá số tiền đánh bạc dưới 05 triệu đồng. Nguyễn Hải T3 và Tạ Quang H chưa thanh toán với nhau tiền đánh bạc.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 01/4/2022, Tòa án nhân dân tỉnh B đã tuyên bố bị cáo Tạ Quang H phạm tội “Tổ chức đánh bạc” và tội “Đánh bạc”. Bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Tổ chức đánh bạc”. Bị cáo Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q, Nguyễn Hải T3 phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 322; điểm c khoản 2, 3 Điều 321; điểm s, t khoản 1 Đỉều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54, 55, 56; Điều 65 khoản 5 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Tạ Quang H 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai tội là 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp với 06 tháng án treo chuyển thành án giam của Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 07 (Bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ 11/7/2021 đến 29/10/2021. Phạt tiền bị cáo 30.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 322; điểm b, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Nguyễn Văn G 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ 11/7/2021 đến 20/7/2021. Phạt tiền bị cáo 20.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38; Bộ luật Hình sự xử phạt:

Nguyễn Xuân P 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ 11/7/2021 đến 17/7/2021. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51;(điểm b khoản 1 Điều 51 và Điều 54 với Tân; điểm g, h khoản 1 Điều 52 với Quân); Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Tạ Huy Q 38 (Ba mươi tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ 11/7/2021 đến 20/7/2021. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

Nguyễn Hải T3 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ 11/7/2021 đến 20/7/2021. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với các bị cáo khác trong vụ án; xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 05/4/2022, bị cáo Nguyễn Văn G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Ngày 08/4/2022, bị cáo Tạ Quang H kháng cáo xin giảm hình phạt;

Cùng ngày, bị cáo Nguyễn Hải T3 và bị cáo Nguyễn Xuân P đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 15/4/2022, bị cáo Tạ Huy Q có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Văn G, Nguyễn Hải T3, Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q đều giữ nguyên nội dung kháng cáo, khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm quy kết và thừa nhận Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Tạ Quang H về các tội “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc”; bị cáo Nguyễn Văn G về tội “Tổ chức đánh bạc”; các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q và Nguyễn Hải T3 về tội “Đánh bạc” là đúng, không oan.

- Bị cáo Tạ Quang H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình, bị cáo là lao động chính, bố mẹ đã già yếu, có con nhỏ; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; giúp Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm; đã nộp số tiền phạt, tiền truy thu, án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Bị cáo Nguyễn Văn G đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài không liên lạc về với gia đình, bản thân bị cáo phải vừa nuôi con nhỏ vừa là lao động chính; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực giúp Cơ quan điều tra phát hiện tội phạm, ủng hộ quỹ chống Covid tại địa phương trong thời gian diễn ra dịch bệnh, ủng hộ Hội cựu chiến binh; bị cáo đã đóng toàn bộ số tiền phạt bổ sung, tiền truy thu và án phí theo quyết định của bản án sơ thẩm. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

- Bị cáo Nguyễn Xuân P đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình, mẹ bị cáo mắc bệnh hiểm nghèo, bản thân là lao động chính trong gia đình, phải nuôi 02 con nhỏ; đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực tham gia tổ Covid cộng đồng do xã G1 thành lập; có ý thức khắc phục hậu quả;

mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

- Bị cáo Tạ Huy Q đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bản thân bị cáo tuổi tác đã cao, hiện đang nuôi mẹ già không có người chăm sóc; khi xảy ra vụ án bị cáo đã đến Cơ quan công an đầu thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

- Bị cáo Nguyễn Hải T3 đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình khó khăn, mẹ mất sớm, là con trai duy nhất và là lao động chính trong gia đình; hiện đang nuôi 2 con nhỏ; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực tham gia tổ Covid cộng đồng do xã G1 thành lập; có ý thức khắc phục hậu quả, nộp đủ số tiền phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biển quan điểm: Kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, đủ điều kiện xét xử theo trình tự phúc thẩm. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo Tạ Quang H, Tạ Huy Q; kháng cáo xin được hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn G và Nguyễn Hải T3 thấy rằng: Các bị cáo Tạ Quang H và Tạ Huy Q phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo với tội danh và hình phạt là có căn cứ. Tại phiên tòa, các bị cáo có tình tiết mới như: các bị cáo đã nộp tiền phạt và án phí hình sự sơ thẩm, có đơn trình bày hoàn cảnh và xin được giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo (có xác nhận của chính quyền địa phương); đã có công trong việc tố giác tội phạm và tham gia ủng hộ phòng chống Covid tại địa phương. Đồng thời, đánh giá nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo của các bị cáo Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn G và Nguyễn Hải T3, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 355, 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh B, cụ thể như sau: giảm một phần hình phạt đối với bị cáo Tạ Quang H, Tạ Huy Q; cho các bị cáo Nguyễn Xuân P, Nguyễn Văn G và Nguyễn Hải T3 được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định sau:

[1] Về tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố về trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà bị cáo và những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp và đúng luật.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Tháng 6/2021, Tạ Quang H sử dụng điện thoại di động có kết nối Intenet, đăng nhập vào cá cược bóng đá và mua trên mạng tài khoản cá độ bóng đá tổng “SCKP” với giá 01 yên là 5.000 đồng. Sau đó, Tạ Quang H chia thành các tài khoản nhỏ dùng để đặt cược cá độ bóng đá ăn tiền bán cho người có nhu cầu đánh bạc bằng hình thức cá độ bóng đá cụ thể: Nguyễn Văn G mua của Tạ Quang H 02 tài khoản cá độ là “SCKP04005” và “SCKP04007” mỗi tài khoản có giới hạn 500 yên, với giá 01 yên là 30.000 đồng. Nguyễn Văn G bán lại tài khoản “SCKP04005” cho Nguyễn Xuân P, bán tài khoản “SCKP04007” cho Hoắc Công K1 với giá 01 yên là 100.000 đồng.

Từ ngày 03/7/2021 đến ngày 10/7/2021, Nguyễn Xuân P đã sử dụng tài khoản “SCKP04007” đặt cược đánh bạc với Nguyễn Văn G 39 lần tại 04 trận bóng đá, tổng số tiền Nguyễn Xuân P đánh bạc là 137.185.000 đồng. Số tiền tổ chức đánh bạc của Tạ Quang H và Nguyễn Văn G là số tiền đánh bạc của Hoắc Công K1 và Nguyễn Xuân P tại tài khoản “SCKP04007” và tài khoản “SCKP04005”, trong đó tiền tổ chức đánh bạc của Nguyễn Văn G tính theo giá 01 yên = 100.000 đồng mà Nguyễn Văn G đã bán cho Hoắc Công K1 và Nguyễn Xuân P, tổng số tiền là 312.190.000 đồng, số tiền tổ chức đánh bạc của Tạ Quang H theo giá 01 yên = 30.000 đồng, tổng là 93.657.000 đồng.

Tạ Quang H bán cho Tạ Huy Q tài khoản cá độ bóng đá “SCKP0400M”, Nguyễn Hải T3 tài khoản SCKP04008, bán cho Nguyễn Phú G2 tài khoản SCKP04001, bán cho Nguyễn Ngọc S1 tài khoản SCKP07002. Trong tháng 6,7 năm 2021, Tạ Huy Q, Nguyễn Hải T3, Nguyễn Phú G2 và Nguyễn Ngọc S1 đã sử dụng tài khoản cá độ mua của Tạ Quang H để đặt cược, đánh bạc với Tạ Quang H nhiều lần ở nhiều trận bóng đá khác nhau.

Tạ Huy Q 35 lần đặt cược đánh bạc tại 06 trận bóng đá. Tổng số tiền Tạ Huy Q đánh bạc là: 46.419.000 đồng, trong đó có 04 trận bóng đá số tiền đánh bạc từ 05 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, 02 trận bóng đá số tiền đánh bạc dưới 05 triệu đồng.

Nguyn Hải T3 20 lần đặt cược đánh bạc tại 06 trận bóng đá. Tổng số tiền Nguyễn Hải T3 đánh bạc là 40.640.000 đồng, trong đó có 01 trận bóng đá số tiền đánh bạc từ 05 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng, 05 trận bóng đá số tiền đánh bạc dưới 05 triệu đồng.

Ngoài ra, Tạ Quang H còn trực tiếp cá độ bóng đá với Nguyễn Như C tại 01 trận bóng đá với số tiền là 15.000.000 đồng, số tiền Tạ Quang H đánh bạc là tổng số tiền đánh bạc của Nguyễn Phú G2, Tạ Huy Q, Bắc, Nguyễn Hải T3, Nguyễn Ngọc S1, Nguyễn Như C với Tạ Quang H là 408.108.100 đồng.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Văn G về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại Điều 322 Bộ luật Hình sự; các bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Xuân P, Nguyễn Hải T3 và Tạ Huy Q bị xét xử về tội “Đánh bạc” theo Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

- Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Tạ Quang H: Trong vụ án này, Tạ Quang H là người đăng nhập và mua trên mạng tài khoản cá độ bóng đá rồi chia thành các tài khoản nhỏ, bán cho người có nhu cầu cá cược nên giữ vai trò chính trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; 03 (Ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai tội là 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù là có căn cứ.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có văn bản của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh B về việc tố giác tội phạm ma túy nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s và t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội và cung cấp các tài liệu mới gồm:

- Biên bản cứu người gặp nạn ngày 16/9/2022 thể hiện bị cáo đã làm việc có ích cứu người đuối nước (Có xác nhận của Trưởng thôn Nghĩa Vy, xã H4, huyện T, tỉnh B).

- Bị cáo đã nộp tiền phạt, truy thu và án phí hình sự sơ thẩm số tiền 81.530.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000654 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B. Ngoài ra, bị cáo còn tự nguyện nộp số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000345 ngày 05/4/20222 và số tiền 70.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000350 ngày 08/4/20222 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

- Công văn số 374/CV/CSĐT ngày 10/10/202 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh B đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội lập công chuộc tội” quy định tại điểm u, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Tạ Quang H vì bị cáo đã giúp Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh B triệt phá thành công ổ nhóm tội phạm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy;

- Đơn xác nhận về việc gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình của Ban quản lý thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B.

Đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, trên cơ sở đánh giá mức độ, hậu quả, việc khắc phục hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, thái độ khai báo, chấp hành pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.

- Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Văn G: Bị cáo Nguyễn Văn G mua tài khoản cá cược của Tạ Quang H rồi bán lại cho Hoắc Công K1 và Nguyễn Xuân P với giá cao hơn để Hoắc Công K1 và Nguyễn Xuân P trực tiếp đánh bạc với Nguyễn Văn G. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” là có căn cứ.

Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tích cực hợp tác giúp Cơ quan điều tra giải quyết nhanh vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xuất trình các tài liệu mới gồm:

- Bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 200.000 đồng ngày 05/4/2022; số tiền 9.950.000 đồng ngày 08/4/2022, số tiền 66.000.000 đồng ngày 14/10/2022 tại các Biên lai thu tiền số AA/2021/0000342, Biên lai thu tiền số AA/2021/0000346 và Biên lai thu tiền số AA/2021/0000655 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

- Công văn số 157/CV ngày 23/9/2022 của Công an xã H4, huyện T, tỉnh B đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội xem xét thành tích của Nguyễn Văn G trong khi xét xử về việc bị cáp Nguyễn Văn G cung cấp thông tin triệt phá tội phạm có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Biên bản cứu người gặp nạn ngày 28/9/2022 thể hiện bị cáo đã có hành vi cứu người gặp nạn (Có xác nhận của những người làm chứng và Ban quản lý thôn N, xã G1, huyện T, tỉnh B.

Đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; gia đình bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài không liên lạc về với gia đình, bản thân bị cáo phải vừa nuôi con nhỏ vừa là lao động chính; trong thời gian tại ngoại, bị cáo ủng hộ quỹ chống Covid tại địa phương trong thời gian diễn ra dịch bệnh, ủng hộ Hội cựu chiến binh; bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật. Do đó, trên cơ sở đánh giá mức độ, hậu quả, việc khắc phục hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, thái độ khai báo, chấp hành pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được hưởng áo treo đối với bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để các bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.

- Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Xuân P thấy rằng: Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Xuân P mua tài khoản của Nguyễn Văn G rồi trực tiếp cá độ với Nguyễn Văn G. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Đánh bạc” là có căn cứ.

Sau khi phạm tội bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; trong thời gian tại ngoại bị cáo tích cực tham gia vào tổ phòng chống Covid cộng đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và xuất trình các tài liệu mới gồm:

- Biên bản cứu người ngày 21/9/2022 thể hiện bị cáo làm việc có ích cho xã hội cứu người đuối nước (có xác nhận của Chính quyền địa phương xã G1, huyện T, tỉnh Băc Giang và người làm chứng) - Bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000343 ngày 05/4/20222; số tiền 90.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000352 ngày 08/4/20222; số tiền 2.520.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000137 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B - Công văn số 36/CV-CAX ngày 04/8/2022 của Công an xã N1, huyện T, tỉnh B đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội xem xét thành tích của Nguyễn Xuân P trong khi xét xử về việc Nguyễn Xuân P cung cấp thông tin triệt phá tội phạm có hành vi mua trái phép chất ma túy. Đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm u khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; gia đình bị cáo hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình; trong thời gian tại ngoại, bị cáo ủng hộ quỹ chống Covid tại địa phương trong thời gian diễn ra dịch bệnh. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được hưởng áo treo đối với bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để các bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.

- Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Hải T3 thấy: Trong vụ án, bị cáo chỉ là tham gia với vai trò là những người mua tài khoản của Tạ Quang H rồi trực tiếp cá cược với Tạ Quang H nên giữ vai trò thứ yếu. Sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong thời gian tại ngoại bị cáo tích cực tham gia vào tổ phòng chống Covid cộng đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo và cung cấp các tài liệu mới gồm:

Bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000344 ngày 05/4/20222; số tiền 6.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000351 ngày 08/4/20222; số tiền 870.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000136 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B; bị cáo có đơn xác nhận của chính quyền địa phương về việc gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo không có bố, mẹ mất sớm, vợ bị cáo không có nghề nghiệp ổn định; bị cáo hiện phải nuôi 02 con nhỏ; bị cáo là lao động chính, trụ cột trong gia đình, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được hưởng áo treo đối với bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để các bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.

- Đối với kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Tạ Huy Q: Trong vụ án này, bị cáo chỉ là tham gia với vai trò là những người mua tài khoản của Tạ Quang H rồi trực tiếp cá cược với Tạ Quang H nên giữ vai trò thứ yếu. Sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trong thời gian tại ngoại bị cáo tích cực tham gia vào tổ phòng chống Covid cộng đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo và cung cấp các tài liệu mới gồm:

Bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 20.000.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000451 ngày 07/6/2022 và 22.609.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/000659 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B; bị cáo có đơn xác nhận của chính quyền địa phương về việc gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, mẹ già, vợ bị cáo không có nghề nghiệp ổn định; bị cáo hiện phải nuôi 02 con nhỏ; bị cáo là lao động chính, trụ cột trong gia đình, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt đối với bị cáo như quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trình bày tại phiên tòa, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật để các bị cáo tích cực cải tạo tốt, sớm có cơ hội hòa nhập với gia đình, xã hội.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Văn G, Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q và Nguyễn Hải T3; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 01/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Văn G, Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q và Nguyễn Hải T3, cụ thể:

- Tuyên bố: Bị cáo Tạ Quang H phạm các tội “Tổ chức đánh bạc”; “Đánh bạc”. Bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội “Tổ chức đánh bạc”. Các bị cáo Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q và Nguyễn Hải T3 phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 322; điểm c khoản 2,3 Điều 321; điểm u, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54, Điều 55, Điều 56; khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt, Tạ Quang H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho hai tội là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với 06 tháng án treo chuyển thành án giam của Bản án số 22/2021/HSST ngày 07/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ 11/7/2021 đến 29/10/2021. Phạt tiền bị cáo 30.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 322; điểm u, b, s, t khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt, Nguyễn Văn G 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Phạt tiền bị cáo 20.000.000đ nộp ngân sách nhà nước.

Giao bị cáo Nguyễn Văn G cho Ủy ban nhân dân xã G1, huyện T, tỉnh B để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng điểm b, c khoản 2, 3 Điều 321; điểm u, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 65; Bộ luật Hình sự xử phạt, Nguyễn Xuân P 30 (ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

Giao bị cáo Nguyễn Xuân P cho Ủy ban nhân dân xã G1, huyện T, tỉnh B để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 321; điểm s, b khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt, Nguyễn Hải T3 24 (hai mươi tư) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

Giao bị cáo Nguyễn Hải T3 cho Ủy ban nhân dân xã G1, huyện T, tỉnh B để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng điểm c khoản 2, 3 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt, Tạ Huy Q 28 (hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ 11/7/2021 đến 20/7/2021. Phạt tiền bị cáo 10.000.000đ nộp ngân sách Nhà nước.

- Ghi nhận bị cáo Tạ Quang H đã nộp tiền phạt, truy thu và án phí hình sự sơ thẩm số tiền 81.530.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000654 ngày 14/10/2022; số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000345 ngày 05/4/20222 và số tiền 70.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000350 ngày 08/4/20222 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B;

- Ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn G đã nộp số tiền 200.000 đồng ngày 05/4/2022; số tiền 9.950.000 đồng ngày 08/4/2022, số tiền 66.000.000 đồng ngày 14/10/2022 tại các Biên lai thu tiền số AA/2021/0000342, Biên lai thu tiền số AA/2021/0000346 và Biên lai thu tiền số AA/2021/0000655 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B;

- Ghi nhận bị cáo Nguyễn Xuân P đã nộp số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000343 ngày 05/4/20222; số tiền 90.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000352 ngày 08/4/20222; số tiền 2.520.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000137 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B;

- Ghi nhận bị cáo Nguyễn Hải T3 đã tự nguyện nộp số tiền 200.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000344 ngày 05/4/20222; số tiền 6.000.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000351 ngày 08/4/20222; số tiền 870.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000136 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B;

- Ghi nhận bị cáo Tạ Huy Q đã nộp số tiền 20.000.000 đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000451 ngày 07/6/2022 và 22.609.000 đồng tại Biên lai thu tiền số AA/2021/000659 ngày 27/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B 2. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Tạ Quang H, Nguyễn Văn G, Nguyễn Xuân P, Tạ Huy Q và Nguyễn Hải T3 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc số 789/2022/HS-PT

Số hiệu:789/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về