Bản án về tội đánh bạc số 93/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 93/2021/HS-PT NGÀY 09/08/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 39/2021/HSPT ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thị Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2021/HS-ST ngày 10/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bị cáo kháng cáo: Trn Thị Đ, sinh ngày: 24/3/1982; trú tại: Thôn T, xã N, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Hậu H và bà Nguyễn Thị N; Chồng: Trần Quốc T; Con: có 3 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 17/01/2018, bị Công an huyện T, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt vi phạm hành chính; Bị cáo tại ngoại tại địa phương. Có mặt tại phiên tòa.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị Như H, Văn phòng Luật sư Bách A, Đoàn Luật sư Hà Nội.

Vụ án còn có những bị cáo khác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong các ngày từ 08/12/2020 đến 10/12/2020, tại xã N, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, Trần Thị Đ, Lê Thị L và Võ Văn Q đã có hành vi đánh bạc bằng hình thức mua, bán số lô, số đề trái pháp luật. Trong đó Trần Thị Đ tham gia thực hiện 03 lần với tổng số tiền 49.264.000 đồng; Lê Thị L tham gia 02 lần với tổng số tiền 32.514.000 đồng và Võ Văn Q tham gia 02 lần với tổng số tiền 12.150.000 đồng.

Với hành vi phạm tội trên, tại Bản án số 10/2021/HS-ST ngày 10/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Đ, Lê Thị L, Võ Văn Q phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g, khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Thị Đ 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lê Thị L 33 tháng cải tạo không giam giữ; Võ Văn Q 30 tháng cải tạo không giam giữ; Tuyên về hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 21/3/2021 bị cáo Trần Thị Đ có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo hoặc cải tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo bổ sung yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm, sau khi xem xét, đánh giá tính chất vụ án, hành vi phạm tội, các tình tiết tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo sửa bản án sơ thẩm số 10/2021/HS-ST ngày 10/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh giảm cho bị cáo 06 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh gia đình của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo hoàn toàn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với thời gian, địa điểm phạm tội, vật chứng thu giữ.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình và đồng phạm là trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn minh trong nhân dân nhưng vẫn cố ý phạm tội nhằm mục đích thu lợi bất chính. Vì vậy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đã xét xử bị cáo về tội "Đánh bạc" là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

Bị cáo Trần Thị Đ năm 2018 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc nhưng không chịu lấy đó làm bài học để sữa chữa, làm ăn lương thiện mà lại tiếp tục phạm tội đánh bạc. Do đó cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để bị cáo thấy được lỗi lầm, cải tạo, sửa chữa trở thành người làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội là hoàn toàn chính xác và nghiêm minh.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy sau khi phạm tội bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với việc làm của mình, hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ dại, bị cáo là nữ lại là lao động chính trong gia đình, chồng thường xuyên đau ốm, bị cáo có ông nội và chú là Liệt sỹ mà hiện nay bố của bị cáo đang thờ cúng. Sau khi xét xử sơ thẩm mặc dù gia đình hoàn cảnh khó khăn nhưng bị cáo cũng đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền phạt bổ sung mà bản án sơ thẩm đã tuyên, việc tự nguyện của bị cáo chứng tỏ bị cáo đã thực sự ăn năn hối cải về hành vi sai phạm của mình. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy để thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sớm được trở về sửa chữa lỗi lầm của mình và trở thành người có ích cho xã hội cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như kháng cáo của bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[4] Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo kháng cáo được chấp nhận không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Trần Thị Đ, sửa bản án sơ thẩm số 10/2021/HS-ST ngày 10/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.

Tuyên bố bị cáo: Trần Thị Đ phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58 BLHS xử phạt bị cáo Trần Thị Đ 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 BLTTH năm 2015; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bị cáo Trần Thị Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 93/2021/HS-PT

Số hiệu:93/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về