Bản án về tội đánh bạc số 43/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 43/2022/HS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2022/TLPT-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L do có kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T và Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐ-VKSTB ngày 11/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đối với bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

* Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Văn T - Sinh năm 1991; Nơi cư trú: Thôn HK, xã HL, huyện VT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Duy P (đã chết) và bà Nguyễn Thị O; Chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 212/2018/HSST ngày 26/7/2018 của Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 21 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Hủy hoại tài sản”, chấp hành xong hình phạt chính ngày 05/6/2020, chấp hành xong án phí ngày 20/12/2021; Tiền sự: Không; Nhân thân: Có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự từ tháng 9/2009 đến tháng 01/2011; Quyết định số 82 ngày 20/10/2016, Công an huyện VT, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm sức khỏe người khác, hình thức phạt tiền 2.500.000 đồng; Quyết định số 58 ngày 20/01/2018, Công an huyện VT, tỉnh Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác, hình thức phạt tiền 3.000.000 đồng, do T vắng mặt tại địa phương nên Công an huyện VT không giao Quyết định xử phạt được cho T, ngày 22/9/2020 Công an huyện VT nộp lưu hồ sơ do hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

* Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Bùi Ngọc T1 - Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Số nhà X, ngõ Y, tổ Z, đường LQĐ, phường TP, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Ngọc T3 và bà Trần Thị M; vợ: Phạm Thị C; có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

2. Ngô Văn Đ - Sinh năm 1990; Nơi cư trú: Thôn TT, xã VT, huyện VT, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn H và bà Lê Thị T4; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

3. Trần Hoài T2 - Sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn LNT, xã QL, huyện KX, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Xuân C (đã chết) và bà Phạm Thị C; Vợ: Đặng Thị T; có 03 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

4. Nguyễn Văn Đ - Sinh năm 1985; Nơi cư trú: Tổ A, phường HD, thành phố TB, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Tiến Đ và bà Nguyễn Thị T; Vợ: Trần Thị T; có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

5. Lộ Văn L- Sinh năm 2000; Nơi cư trú: Thôn D, xã TB, thành phố TB, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lộ Văn Đ và bà Trần Thị S; Vợ: Tạ Thị H; có 02 con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 10/11/2021, Ngô Văn Đ, Nguyễn Văn Đ, Đỗ Văn T đều là công nhân xây dựng tại công trường xây dựng khu nhà ở Thương Mại 7,1 Hecta thuộc thôn Tống Thỏ Nam, xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình nghỉ trưa tại tầng 02 ngôi nhà đang xây dựng trong khu nhà ở Thương Mại 7,1 Hecta thấy gần cầu thang có 01 bộ bài tú lơ khơ nên cả ba cùng rủ nhau đánh ba cây ăn tiền. T nhặt bộ bài để cùng đánh bạc, thống nhất luật chơi như sau: Người làm cái sử dụng bộ bài tú lơ khơ 36 quân bài (từ quân A - 9) chia đều cho mỗi người 03 quân bài. Người chơi dùng tiền đặt cược (ít nhất là 50.000 đồng) sau đó tính tổng điểm 03 quân bài lấy điểm ở hàng đơn vị so sánh với người làm cái, ai cao điểm hơn người đó thắng. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày Lộ Văn L đến thấy T, Đ, Đ đang đánh bạc nên đã cùng tham gia đánh bạc, sau đó Trần Hoài T2, Bùi Ngọc T1 đến và tham gia đánh bạc. Các đối tượng đánh bạc đến 13 giờ cùng ngày thì bị Công an thành phố Thái Bình phát hiện, bắt quả tang thu tại chỗ đánh bạc 01 chiếu nhựa, 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân bài và số tiền 12.040.000 đồng và quản lý trên người các đối tượng số tiền 5.910.000 đồng dùng để đánh bạc, tổng số tiền là 17.950.000 đồng. Trong đó Đỗ Văn T sử dụng 4.300.000 đồng, Ngô Văn Đ sử dụng 3.000.000 đồng, Nguyễn Văn Đ sử dụng 1.800.000 đồng, Lộ Văn L sử dụng 1.300.000 đồng, Trần Hoài T2 sử dụng 1.970.000 đồng, Bùi Ngọc T1 sử dụng 5.580.000 đồng để đánh bạc.

Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L phạm tội “Đánh bạc”.

2. Hình phạt:

2.1. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 35, Điều 38, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ 06 ngày (từ ngày 10/11/2021 đến ngày 16/11/2021). Thời gian còn lại bị cáo Đỗ Văn T phải thi hành là 11 (mười một) tháng 24 (hai bốn) ngày. Phạt bổ sung Đỗ Văn T 5.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

2.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T1 25.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

2.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Văn Đ 20.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

2.4. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hoài T2 20.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

2.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 20.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

2.6. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lộ Văn L20.000.000 đồng nộp Ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên về xử lý vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 01/3/2022, bị cáo Đỗ Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt và xin được hưởng án treo.

Quyết định số 05/QĐ-VKSTB ngày 11/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về phần hình phạt đối với các bị cáo Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm, sửa Bản án hình sự sơ thẩm theo hướng không cho các bị cáo Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Vãn Đ, Lộ Văn L được hưởng hình phạt tiền và chuyển sang hình phạt khác nặng hơn.

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn T xin rút đơn kháng cáo. Các bị cáo Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lthành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như lời khai và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử quyết định xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích nội dung vụ án, xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đề nghị rút đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T, nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T.

- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, sửa bản án sơ thẩm số 27/2022/HS-ST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với các bị cáo như sau:

+ Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T1 từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

+ Xử phạt các bị cáo Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lmỗi bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng cải tạo không giam giữ. Miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Phạt tiền mỗi bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị hội đồng xét xử xem xét xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đỗ Văn T xin rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo, việc rút đơn kháng cáo của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật. Vì vậy, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T.

[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình: Trong khoảng thời gian từ 11 giờ đến 13 giờ ngày 10/11/2021, tại tầng 2 ngôi nhà đang xây dựng khu nhà ở Thương Mại 7,1 Hecta ở thôn Tống Thỏ Nam, xã Đông Mỹ, thành phố Thái Bình các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lcó hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức chơi ba cây bị Công an thành phố Thái Bình bắt quả tang, thu giữ tại chỗ ngồi và trong người các bị cáo số tiền sử dụng để đánh bạc là 17.950.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trật tự, an toàn công cộng, làm mất trật tự trị an xã hội, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lđã phạm tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[3] Xét thấy, tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 17.950.000 đồng, trong đó bị cáo Bùi Ngọc T1 sử dụng số tiền đánh bạc nhiều nhất là 5.580.000 đồng nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tiền đối với bị cáo Bùi Ngọc T1 là chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo do vậy Viện kiểm sát kháng nghị về hình phạt đối với bị cáo Bùi Ngọc T1 là có căn cứ. Tuy nhiên, mức hình phạt Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T1 là có phần nghiêm khắc, bị cáo có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng do đó xử phạt bị cáo cải tạo không giam giữ là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Qua xác minh, bị cáo lao động tự do không có thu nhập ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo. Các bị cáo Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lquá trình điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc không lớn, Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt tiền đối với các bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội và cũng đủ điều kiện răn đe giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội. Vì vậy, cần chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo Bùi Ngọc T1, giữ nguyên mức hình phạt đối với các bị cáo Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L.

[4] Về án phí: Các bị cáo Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn Lbị kháng nghị về hình phạt, bị cáo Đỗ Văn T rút đơn kháng cáo trước khi mở phiên tòa vì vậy các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Văn T.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình. Sửa bản án sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với bị cáo Bùi Ngọc T1.

3. Áp dụng Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 27/2022/HSST ngày 24/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về hình phạt đối với các bị cáo Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L.

4. Về hình phạt:

4.1. Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 36, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc T1 01 (một) năm cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Đối trừ 07 ngày tạm giữ bằng 21 ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải thi hành 11 tháng 09 ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường TP nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Bùi Ngọc T1 cho Ủy ban nhân dân phường TP, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Phạt tiền bị cáo Bùi Ngọc T1 5.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Áp dụng khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự: Miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo Bùi Ngọc T1.

4.2. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Văn Đ 20.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước về tội “Đánh bạc”.

4.3. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Hoài T2 20.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước về tội “Đánh bạc”.

4.4. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 20.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước về tội “Đánh bạc”.

4.5. Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 35, Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lộ Văn L20.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước về tội “Đánh bạc”.

5. Về án phí: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Đỗ Văn T, Bùi Ngọc T1, Ngô Văn Đ, Trần Hoài T2, Nguyễn Văn Đ, Lộ Văn L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 43/2022/HS-PT

Số hiệu:43/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về