TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 42/2022/HS-PT NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Ma Thế T (tên gọi khác: Ma Thế C), sinh ngày 19/4/1990 tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang;
Nơi cư trú: Thôn K, xã K, huyện C, tỉnh Tuyên Quang;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng, đoàn thể: Không; Con ông Ma Thế B, sinh năm 1960 và bà Ma Thị M, sinh năm 1961; Có vợ Trương Thị D, sinh năm 1990 và có 01 con.
- Tiền án: Không;
- Tiền sự: Có 01 tiền sự, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 93/QĐ- XPHC ngày 03/6/2021 của Công an huyện N, tỉnh Tuyên Quang, phạt tiền:
1.000.000 đồng về hành vi: Đánh bạc (đánh bi-a cá cược được thua bằng tiền Việt Nam đồng), đã nộp phạt ngày 03/6/2021.
Bị cáo hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
2. Trương Tiến D (tên gọi khác: Trương Văn N), sinh ngày 20/12/1993 tại huyện L, tỉnh Tuyên Quang;
Nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện N, tỉnh Tuyên Quang;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng: Không; đoàn thể: Bí thư chi đoàn thôn C, xã T, huyện N, tỉnh Tuyên Quang nhưng không phải là Đảng viên; Con ông Trương Phúc H, sinh năm 1963 và bà Chúc Thị M, sinh năm 1962; Có vợ Bàn Thị C, sinh năm 1995 và có 02 con.
- Tiền án: Không;
- Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 94/QĐ-XPHC ngày 03/6/2021 của Công an huyện N, tỉnh Tuyên Quang phạt tiền: 1.000.000 đồng về hành vi: Đánh bạc (đánh bi-a cá cược được thua bằng tiền Việt Nam đồng), đã nộp phạt ngày 03/6/2021.
- Nhân thân: Bản án số 25/HSST ngày 24/12/2015 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng về tội Đánh bạc (chấp hành xong ngày 24/12/2016) Bị cáo hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Ma Thế T: Ông Hoàng Văn Vũ – Trợ giúp viên Trung T trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Trương Tiến D: Ông Phạm Thế Nghĩa - Trợ giúp viên Trung T trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 22/01/2022, Ma Thế T (đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) có mời Hà Văn D2, sinh năm 1976; Vì Văn L, sinh năm 1979; La Đức V, sinh năm 1975, cùng trú tại Thôn K, xã K, huyện C, tỉnh Tuyên Quang và Mạc Văn T2, sinh năm 1974; Ma Thế T3 sinh năm 1979, cùng trú tại Thôn L, xã K, huyện C, tỉnh Tuyên Quang đến nhà để ăn cơm uống rượu, trong lúc đang ăn cơm, uống rượu thì có thêm Trương Tiến D (em cậu T, đã có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) đến tham gia cùng. Khoảng 22 giờ cùng ngày sau khi ăn uống xong T rủ, Trương Tiến D, Hà Văn D2, L, V, T2, T3 cùng nhau đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa cá cược được thu bằng tiền VNĐ tại bếp của gia đình T. Trước khi đánh bạc, T là người trực tiếp trải chiếu, chuẩn bị bát, đĩa và quân bạc để chơi sóc đĩa đoán chẵn, lẻ. T và mọi người cùng thống nhất mức cược từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng/01 ván; tỉ lệ thắng cược là “01:01”. Khi bắt đầu cho một ván bạc người cầm cái lấy bốn quân bạc để vào đĩa, dùng bát úp lên và xóc nhiều lần sau đó đặt xuống chiếu bạc để cho những người chơi đặt cược bên chẵn hoặc bên lẻ. Đặt cược xong thì mở bát, nếu có 4 quân bạc đều lật màu đen hoặc đều lật màu trắng hoặc có 02 quân lật mặt đen và 02 quân lật mặt trắng là chẵn thì người đặt bên chẵn thắng bạc, người đặt bên lẻ thua bạc; ngược lại nếu 01 quân lật mặt đen và 03 quân lật mặt trắng hoặc 03 quân lật mặt đen 01 quân lật mặt trắng là lẻ thì người đặt cửa lẻ thắng bạc, người đặt cửa chẵn thua bạc. Quá trình đánh bạc T là người xóc cái đầu tiên rồi xoay vòng cho những người tham gia đánh bạc thay nhau xóc cái. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, trong khi T và mọi người đang đánh bạc thì bị tổ công tác Công an huyện C phát hiện và lập biên bản vi phạm, thu giữ trên chiếu bạc số tiền:
1.954.000 đồng; 01 chiếu nhựa; 01 bát sứ; 01 đĩa sứ; 04 quân bạc bằng đóm tre.
Quá trình điều tra các đối tượng khai nhận số tiền mang theo sử dụng vào mục đích đánh bạc, như sau: Ma Thế T 50.000 đồng, Trương Tiến D 150.000 đồng, Hà Văn D2 500.000 đồng, Vì Văn L 716.000 đồng, La Đức V 50.000 đồng, Mạc Văn T2 200.000 đồng và Ma Thế Tốt 50.000 đồng; tổng số tiền là 1.716.000 đồng.
Mặc dù tổng số tiền các đối tượng khai nhận mang theo sử dụng vào việc đánh bạc thấp hơn tổng số tiền thu giữ tại chiếu bạc (thu giữ 1.954.000 đồng) và số tiền các đối tượng giao nộp trong quá trình điều tra (Trương Tiến D: 50.000 đồng; Hà Văn D2: 400.000 đồng; Vì Văn L: 916.000 đồng; Mạc Văn T2: 130.000 đồng) cộng lại, nhưng đều thừa nhận số tiền thu giữ tại chiếu bạc và số tiền giao nộp trong quá trình điều tra là 1.496.000 đồng, tổng số tiền là 3.450.000đ là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.
Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C thu giữ: 01 chiếu nhựa hoa văn màu đỏ, vàng, trắng kích thước (2,05x1,8)m đã qua sử dụng; 01 bát sứ, loại bát con, kích thước đường kính miệng bát 11,5 cm, đáy bát đường kính 05 cm, cao 06 cm; 01 đĩa sứ hình tròn, đường kính mặt đĩa 15 cm, đường kính đáy 09 cm, trên mặt đĩa có in hình 04 bông hoa màu đỏ, vàng, xanh, tình trạng cũ đã qua sử dụng; 04 quân bạc bằng mảnh tre, một mặt đen, một mặt trắng, tình trạng cũ đã qua sử dụng; kích thước mỗi quân bạc dài rộng là (1,5 x 01)cm. Tiền Việt Nam đồng 3.450.000 đồng (trong đó: 1.954.000 đồng thu giữ tại hiện trường và số tiền bị cáo cùng các đối tượng giao nộp, cụ thể: Trương Tiến D 50.000 đồng; Hà Văn D2 400.000 đồng; Vì Văn L 916.000 đồng; Mạc Văn T2 130.000 đồng).
Quá trình điều tra các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang đã quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D phạm tội “Đánh bạc”.
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38, điều 47 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ma Thế T (Tên gọi khác: Ma Thế C) 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trương Tiến D (Tên gọi khác: Trương Văn N) 07 (Bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D mỗi bị cáo 10.000.000đ (Mười triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/6/2022, bị cáo Ma Thế T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo. Ngày 07/6/2022 Toà án nhân dân huyện C nhận được đơn kháng cáo của bị cáo Trương Tiến D với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Ma Thế T và Trương Tiến D thay đổi nội dung kháng cáo chỉ xin hưởng án treo.
Kết thúc phần xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định pháp luật; đơn kháng cáo của các bị cáo hợp lệ trong hạn luật định; thủ tục giải quyết vụ án đúng trình tự tố tụng.
- Về nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, xử phạt bị cáo Ma Thế T 07 tháng tù và bị cáo Trương Tiến D 07 tháng tù về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội, tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Ma Thế T xuất trình tình tiết mới là giấy xác nhận bố mẹ bị cáo là dân công hỏa tuyến; 01 Biên lai thu tiền nộp phạt và án phí hình sự sơ thẩm số 0002572, ngày 16/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Bị cáo Trương Tiến D xuất trình tình tiết mới là giấy xác nhận bố mẹ bị cáo là dân công hỏa tuyến; 01 Bằng khen và 01 Giấy khen của bố bị cáo; 01 Biên lai thu tiền nộp phạt và án phí hình sự sơ thẩm số 0002571, ngày 16/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Xét thấy cấp sơ thẩm đã xét xử mức án là phù hợp với mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, tuy nhiên các bị cáo đã xuất trình tình tiết mới, đã nộp phạt số tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm thể hiện sự ăn năn hối cải, các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền các bị cáo sử dụng tham gia đánh bạc ít, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nên cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt và cho hưởng án treo. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang đối với các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D theo hướng giữ nguyên hình phạt, nhưng cho các bị cáo hưởng án treo.
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65, Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Thế T (Tên gọi khác: Ma Thế C) 07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/8/2022).
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65, Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Tiến D (Tên gọi khác: Trương Văn N) 07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, thời gian thử thách 01 năm 02 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/8/2022).
Giao các bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã nơi các bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách của án treo theo quy định của pháp luật.
Ghi nhận các bị cáo đã nộp số tiền nộp phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Người bào chữa cho bị báo Ma Thế T trình bày: Bị cáo Ma Thế T (C) có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa phúc thẩm phát sinh tình tiết mới (Giấy xác nhận bố mẹ của bị cáo là dân công hỏa tuyến, bị cáo đã nộp xong tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm). Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ma Thế T, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang, xử bị cáo Ma Thế T 07 tháng tù cho hưởng án treo.
Người bào chữa cho bị cáo Trương Tiến D trình bày: Bị cáo Trương Tiến D (N), có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, tại phiên tòa phúc thẩm phát sinh tình tiết mới (Giấy xác nhận bố mẹ của bị cáo là dân công hỏa tuyến, bị cáo đã nộp xong tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm). Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Tiến D, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang, xử bị cáo Trương Tiến D (N) 07 tháng tù cho hưởng án treo.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Tại phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, đúng pháp luật; trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là đúng quy định.
[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D thay đổi nội dung kháng cáo chỉ xin hưởng án treo. Các bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Trong khoảng thời gian từ 22 giờ 00 phút đến 23 giờ 30 phút ngày 22/01/2022, tại gian nhà bếp của Ma Thế T, trú tại thôn K, xã K, huyện C: Ma Thế T (có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) và Trương Tiến D (có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc) tiếp tục có hành vi đánh bạc dưới hình thức xóc đĩa cùng các đối tượng Vì Văn L, Hà Văn D2, La Đức V, Mạc Văn T2, Ma Thế Tốt. Tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 3.450.000 đồng (Ba triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó: Ma Thế T sử dụng 50.000 đồng, Trương Tiến D sử dụng 150.000 đồng để đánh bạc, do đó hành vi của bị cáo Ma Thế T và Trương Tiến D đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nội dung kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội bị pháp luật nghiêm cấm, cần phải bài trừ, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác và cũng là nguyên nhân làm suy giảm kinh tế gia đình, bị dư luận quần chúng nhân dân lên án. Do vậy, cần phải xử nghiêm các bị cáo bằng pháp luật hình sự và có mức hình phạt tương xứng với từng hành vi của mỗi bị cáo, mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Ma Thế T là 07 (Bảy) tháng tù, Trương Tiến D 07 (Bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc” là đúng người, đúng tội.
Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Ma Thế T xuất trình tình tiết mới là 01 Quyết định giải quyết chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hoả tuyến có tên Ma Thị M (Mẹ bị cáo); 01 Quyết định xuất ngũ và 01 Quyết định giải quyết chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hoả tuyến có tên Ma Thế B (Bố bị cáo); 01 Biên lai thu tiền nộp phạt và án phí hình sự sơ thẩm số 0002572, ngày 16/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Bị cáo Trương Tiến D xuất trình tình tiết mới là 01 Giấy chứng nhận tham gia dân công hoả tuyến và 01 Quyết định giải quyết chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hoả tuyến có tên Chúc Thị M (Mẹ bị cáo); 01 Giấy chứng nhận tham gia dân công hoả tuyến và 01 Quyết định giải quyết chế độ trợ cấp một lần đối với dân công hoả tuyến có tên Trương Phúc H (Bố bị cáo); 01 Bằng khen và 01 Giấy khen có tên Trương Phúc H; 01 Biên lai thu tiền nộp phạt và án phí hình sự sơ thẩm số 0002571, ngày 16/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C. Hội đồng xét xử thấy tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, đã nộp phạt số tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm thể hiện sự ăn năn hối, phạm thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền bị cáo sử dụng tham gia đánh bạc ít, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng do vậy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ma Thế T và Trương Tiến D, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang về phần hình phạt đối với các bị cáo là giữ nguyên mức hình phạt tù như bản án sơ thẩm đã tuyên nhưng cho hưởng áo treo cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[4] Ghi nhận các bị cáo đã nộp số tiền phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm.
Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo Ma Thế T và Trương Tiến D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ma Thế T và Trương Tiến D, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 03 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Tuyên Quang về phần hình phạt đối với các bị cáo như sau:
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Ma Thế T (Tên gọi khác: Ma Thế C) 07 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 01 năm 02 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/8/2022).
- Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Trương Tiến D (Tên gọi khác: Trương Văn N) 07 tháng tù cho hưởng án treo, về tội “Đánh bạc”. Thời gian thử thách 01 năm 02 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (17/8/2022).
Giao bị cáo Ma Thế T cho Ủy ban nhân dân xã K, huyện C, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.
Giao bị cáo Trương Tiến D cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Tuyên Quang nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.
Trong thời gian thử thách của án treo, nếu các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Trong thời gian thử thách của án treo nếu các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Ghi nhận các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D đã nộp số tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm tại các biên lai số 0002572 và 0002571, ngày 16/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C;
2. Về án phí: Các bị cáo Ma Thế T, Trương Tiến D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (17/8/2022)./.
Bản án về tội đánh bạc số 42/2022/HS-PT
Số hiệu: | 42/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về