Bản án về tội đánh bạc số 120/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 120/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 109/2023/TLST- HS ngày 11 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Đình L, sinh năm 1980 tại tại tỉnh Ninh Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Xuân B (đã chết) và bà Bùi Thị L1; vợ: Bùi Thị X, sinh năm 1989; con có 03 người, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2018/HSST ngày 05/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T, áp dụng khoản 1, Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Đình L 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong ngày 22/7/2018 (đã được xóa án tích); bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/6/2023 cho đến nay (có mặt).

2. Họ và tên: Đặng Văn L2, sinh năm 1976 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã Q, huyện A, Thành phố H; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn L3 và bà Hà Thị L4; vợ thứ nhất: Đặng Thị H, sinh năm 1982 (không đăng ký kết hôn) (đã chết), vợ thứ hai: Nguyễn Thị T, sinh năm 1977 (không đăng ký kết hôn); con có 02 người, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/6/2023 cho đến nay (có mặt).

3. Họ và tên: Vũ Hoàng Minh D, sinh năm 1995 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã T, huyện A, Thành phố H; chỗ ở hiện nay: Ấp T, xã S, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Minh T1 (đã chết) và bà Hoàng Thị A; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/6/2023 cho đến nay (có mặt).

4. Họ và tên: Nguyễn Thị B1, sinh năm 1962 tại tỉnh Ninh Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh T; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; chồng: Vũ Xuân N, sinh năm 1961 (đã chết), con có 05 người, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi noi cư trú theo Lệnh số 88/LC-CSHS ngày 25/7/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh T (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Thế H1, sinh năm 1983; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N, xã T, huyện A, Thành phố H; chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã S, huyện T, tỉnh T, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 07/5/2023, Lê Đình L, Vũ Hoàng Minh D, Đặng Văn L2 đến nhà Nguyễn Thị B1 thuộc ấp A, xã S, huyện T, tỉnh T thì được B1 rủ đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Phỏm” được thua bằng tiền thì tất cả đồng ý. Lúc này Bùi đi mua 30 bộ bài tây, loại bài 52 lá và quy định mỗi ván người thắng thắng được 120.000 đồng, người thua nhất chung 60.000 đồng, người thua nhì chung 40.000 đồng, người thua ba chung 20.000 đồng. Khi tham gia đánh bạc Lê Đình L sử dụng số tiền 3.700.000 đồng để đánh bạc, chơi thua 450.000 đồng; Đặng Văn L2 sử dụng số tiền 4.965.000 đồng để đánh bạc, chơi không thắng, không thua; Vũ Hoàng Minh D sử dụng số tiền 2.090.000 đồng để đánh bạc, chơi không thắng, không thua; Nguyễn Thị B1 sử dụng số tiền 310.000 đồng để đánh bạc, chơi thắng 40.000 đồng, khi phát hiện lực lượng Công an Bùi bỏ chạy đánh rơi số tiền 300.000 đồng. Tổng số tiền dùng để đánh bạc là 11.065.000 đồng. Sòng bạc diễn ra đến 10 giờ 00 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh T các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện. Đối với Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D, Nguyễn Thị Bùi 1 phạm tội này là lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

- Thu giữ tại chiếu bạc tiền Việt Nam 650.000 đồng; 04 cái ghế nhựa; 01 cái bàn; 01 cài mền; 05 bộ bài tây loại bài 52 lá đã qua sử dụng; 20 bộ bài tây loại bài 52 lá chua qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu Vision, biển số 48B1- xxxxx, số khung: 5812GY279, số máy: IF66E0765225 của Đặng Văn L2; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave biển số 70K1- xxxxx, số khung: RLHHC121809788135, số máy: HC12E5788222 của Vũ Hoàng Minh D.

- Tạm giữ của:

+ Nguyễn Thị B1: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y21, imei 1: 861428056731012 và 50.000 đồng tiền Việt Nam;

+ Vũ Hoàng Minh D: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax, imei: 358612415051689 và 2.090.000 đồng tiền Việt Nam;

+ Đặng Văn L2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50s, số imei 1: 3581931011390212, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số sê ri: 352877106352847 và 4.725.000 đồng tiền Việt Nam;

+ Lê Đình L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y15s, imei 1: 867251054678009 và 3.250.000 đồng tiền Việt Nam.

- Xe mô tô biển số 70K1-xxxxx đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Bùi Thế H1.

Kê biên tài sản: Nguyễn Thị B1 có đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 65, tờ bản đồ số 114, diện tích 546.6 m2, đất ở nông thôn 400 m2 và đất trồng cây lâu năm 146.6 m2; thửa đất số 148, tờ bản đồ số 148, tờ bản đồ số 114, diện tích 628.9 m2, đất ở nông thôn 200 m2 và đất trồng cây lâu năm 428.9 m2 nhưng đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP Đ1 - Chi nhánh T2 - P nên không tiến hành kê biên. Qua xác minh thể hiện Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D không có tài sản, nên không tiến hành kê biên.

Kết luận giám định số 895/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng K Công an tỉnh T, kết luận: 18 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 500.000 đồng; 04 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 200.000 đồng; 05 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 100.000 đồng; 08 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 50.000 đồng; 02 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 20.000 đồng; 02 tờ tiền Việt Nam đồng (P) mệnh giá 10.000 đồng; 01 tờ tiền Việt Nam đồng (cotton) mệnh giá 5.000 đồng cần giám định là tiền thật.

Tại bản Cáo trạng số 115/CT-VKSTC ngày 08/9/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T đã truy tố các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 phạm tội “Đánh bạc”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Đình L từ 09 tháng tù đến 12 tháng tháng tù;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đặng Văn L2 từ 09 tháng tù đến 12 tháng tháng tù;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Hoàng Minh D từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù;

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thị B1 từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh T, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 07/5/2023 tại nhà bị cáo Nguyễn Thị B1, thuộc ấp A, xã S, huyện T, tỉnh T, Nguyễn Thị BI cùng với Lê Đình L, Đặng Văn L2 và Vũ Hoàng Minh D tham gia đánh bạc dưới hình thức đánh bài “Phỏm” được thua bằng tiền. Sòng bạc diễn ra đến 10 giờ 00 phút cùng ngày thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

Tổng số tiền các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị BI dùng để đánh bạc là 11.065.000 đồng. Do đó, đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Lê Đình L, Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự nhu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng nhưng hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ; gây mật trật tự, trị an xã hội tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm các bị cáo biết rõ việc đánh bạc trái phép được thua bằng tiền là vi phạm pháp luật nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà các bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của mình gây ra và cần xử lý nghiêm.

[4] Trong vụ án này các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn, không có sự câu kết chặt chẽ. Trong đó, bị cáo L có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù về hành vi đánh bạc (đã được xóa án tích), nay lại tiếp tục đánh bạc nên chịu trách nhiệm hình sự cao nhất. Bị cáo L2 dùng số tiền nhiều nhất để đánh bạc nên phải chịu trách nhiệm hình sự bằng với bị cáo L. Bị cáo D dùng số tiền thấp hơn bị cáo L và bị cáo L2 nên phải chịu trách nhiệm hình sự thấp hơn bị cáo L và bị cáo L2. Bị cáo B1 dùng số tiền ít nhất để đánh bạc nên phải chịu trách nhiệm hình sự thấp nhất.

[5] Khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét đến nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Đặng Văn L2, Vũ Hoàng Minh D và Nguyễn Thị B1 phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo L và bị cáo B1 có cha là người có công với cách mạng, bị cáo L đã từng tham gia nghĩa vụ quân sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tinh tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[6] Xét thấy, bị cáo L2 có nhân thân xấu, đã từng bị xử phạt tù về hành vi đánh bạc (đã được xóa án tích), nay lại tiếp tục phạm tội, bị cáo L2 là người dùng số tiền nhiều nhất để đánh bạc nên cần xử phạt tù đối với các bị cáo này nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo D phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên có đủ điều kiện xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo và xử bị cáo bằng thời hạn tạm giam cũng đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo B1 phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo nên chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập hằng tháng cho bị cáo do bị cáo không có thu nhập ổn định cũng đủ tính giáo dục, răn đe; đồng thời cũng không ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự cần phạt bổ sung bị cáo B1 10.000.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước. Các bị cáo L, L2, D không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 04 cái ghế nhựa, 01 cái bàn, 01 cài mền; 05 bộ bài tây đã qua sử dụng; 20 bộ bài tây chua qua sử dụng là dụng cụ đánh bạc và là tài sản không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 11.065.000 đồng thu giữ của các bị cáo L, L2, D, Bùi là tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc và thu lợi bất chính cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y21, imei 1: 861428056731012 thu giữ của bị cáo B1; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax, imei: 358612415051689 thu giữ của bị cáo D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50s, số imei 1: 3581931011390212, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số sê ri: 352877106352847 thu giữ của bị cáo L2; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y15s, imei 1: 867251054678009 thu giữ của bị cáo L không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho các bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 48B1-xxxxx thu giữ của bị cáo L2, không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 xe mô tô biển số 70K1-xxxxx, không liên quan đến vụ án Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là anh Bùi Thế H1 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Đối hành vi đánh bạc của các bị cáo xảy ra trước ngày bị bắt quả tang, do không xác định được người cùng tham gia đánh bạc và số tiền dùng để đánh bạc nên không đủ cơ sở để xử lý hình sự.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Đình L 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2023.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn L2 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2023.

3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Vũ Hoàng Minh D 03 tháng 20 ngày tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2023. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm nào khác.

4. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Bùi 0 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện T, tỉnh T nhận được Quyết định thi hành án.

Giao bị cáo Nguyễn Thị B1 cho Ủy ban nhân dân xã S, huyện T, tỉnh T giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã S, huyện T, tỉnh T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp bị cáo Nguyễn Thị Bùi thay đ nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật Thi hành án hình sự.

5. Miễn khấu trừ thu nhập hằng tháng cho bị cáo Nguyễn Thị Bùi.

6. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 3 Điều 321 của Bộ luật Hình sự: Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thị B1 số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung vào Ngân sách nhà nước

7. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 04 cái ghế nhựa, 01 cái bàn, 01 cài mền; 05 bộ bài tây đã qua sử dụng; 20 bộ bài tây chưa qua sử dụng.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 11.065.000 đồng là tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc và thu lợi bất chính cần.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị B1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y21, imei 1: 861428056731012 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Vũ Hoàng Minh D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Promax, imei: 358612415051689 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Đặng Văn L2 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A50s, số imei 1: 3581931011390212; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, số sê ri: 352877106352847 và 01 xe mô tô biển số 48B1-xxxxx nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho bị cáo Lê Đình L01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo Y15s, imei 1: 867251054678009 nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh T theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2023).

8. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các Bị cáo Lê Đình L, Vù Hoàng Minh D, Đặng Văn L2 và Nguyễn Thị Bùi m bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

9. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

10. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T để xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Bùi Thế H1 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 120/2023/HS-ST

Số hiệu:120/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về