Bản án về tội đánh bạc số 105/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 105/2021/HS-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 106/2021/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2021/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Võ Thanh L (tên gọi khác: T), sinh năm 1975; tại T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 18/6, đường Trần Hưng Đạo, Phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh T; nơi cư trú hiện nay: Số 89, đường A, khu phố L, phường Long Thành B, thị xã H, tỉnh T; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Cao Đài; con ông Võ Văn Lên, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1953; vợ, con: không có.

Tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/6/2021 đến ngày 16/6/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Thanh L và người phụ nữ tên L (không rõ nhân thân, địa chỉ) cùng nhau bàn bạc, thống nhất dựa vào kết quả xổ số kiến thiết của các đài miền nam để đánh bạc thắng, thua bằng tiền dưới hình thức bán số đề cho người khác. L trực tiếp bán số đề hoặc người mua điện thoại, nhắn tin cho L nói rõ con số cần mua, số tiền mua, số lô bao. Sau đó, L tổng hợp thành phơi đề trên điện thoại và nhắn tin chuyển giao cho L. Theo thỏa thuận, L nhận 75% số tiền của người mua và chuyển cho L 70% (L hưởng lợi 05%). Khi có kết quả xổ số thì L gọi điện thoại báo cho L biết, nếu lỗ thì L đưa tiền để L chung chi. Nếu lãi thì sau khi chung, chi xong, L giao toàn bộ phần tiền lời cho L. Vào lúc 16 giờ 10 phút ngày 10/6/2021, khi L đang bán số đề tại quán cà phê “A” thuộc khu phố L, phường Long Thành B, thị xã H, tỉnh T do anh Nguyễn Ngọc M làm chủ thì bị lực lượng Công an phường Long Thành B, thị xã H tiến hành bắt quả tang thu giữ 01 điện di động IPHONE-S số thuê bao 091981xxxx; 01 máy tính hiệu Casio; 02 cây bút bi mực màu xanh; 04 tờ giấy có ghi số đề.

Qua kiểm tra tin nhắn trên điện thoại và các phơi đề của L ghi ngày 10/6/2021 thể hiện kết quả như sau: Dựa vào kết quả xổ số kiến thiết tỉnh T, L đã bán số đề cho Ngô Quốc V với số tiền 1.957.000 đồng; Dựa vào kết quả xổ số các tỉnh T, A Giang và Bình Thuận, L đã bán số đề cho những người: Lê Thị L số tiền 2.079.000 đồng, bán cho người tên Th (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 3.030.000 đồng; bán cho người tên M (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 950.000 đồng; bán cho người tên anh N (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 134.000 đồng; bán cho người tên C (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 540.000 đồng; bán cho người tên chị Sáu (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 142.000 đồng; bán cho người tên dì N (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 360.000 đồng; bán cho người tên anh S (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 134.000 đồng và bán cho những người (không rõ họ tên, địa chỉ) với số tiền 5.643.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền L bán số đề và giao lại cho L trong ngày là 14.969.000 đồng, chưa có kết quả xổ số thì L bị bắt quả tang.

Ngoài ra, qua kiểm tra tin nhắn trên điện thoại của L xác định: ngày 17/3/2021, dựa vào kết quả xổ số kiến thiết tỉnh Đồng Nai, L đã bán số đề cho người tên O 40 (không rõ nhân thân, địa chỉ) với số tiền 267.000 đồng, chưa đủ định lượng xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Có bảng thống kê kèm theo.

* Kết quả kê biên tài sản: Bị cáo không có tài sản nên không tiến hành kê biên.

* Đối với Ngô Quốc V, Lê Thị L không có tiền án, tiền sự và tham gia đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nên Công an thị xã H chuyển hồ sơ xử phạt phạm hành chính là có căn cứ.

* Đối với những người mua số đề tên Th, Mai, anh N, C, chị S, dì N và anh S hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

* Đối với người phụ nữ tên L nhận số đề từ L, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

* Đối với anh Nguyễn Ngọc M (chủ quán cà phê A) không biết việc L bán số đề nên không xem xét xử lý.

Quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng.

Bản Cáo trạng số: 109/CT-VKSHT ngày 13 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T đã truy tố bị cáo L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H giữ quyền công tố, trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

* Căn cứ khoản 1 Điêu 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 (Một) năm tù đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

* Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo L trình bày lời nói sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo được sớm trở về với gia đình và hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được, cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có cơ sở xác định:

Vào lúc 16 giờ 10 phút ngày 10/6/2021, tại quán cà phê “A” thuộc khu phố L, phường Long Thành B, thị xã H, tỉnh T, Võ Thanh L đang thực hiện hành vi đánh bạc thắng, thua bằng tiền trái phép dưới hình thức bán số đề thì bị lực lượng Công an phường Long Thành B, thị xã H, tỉnh T bắt quả tang. Số tiền L đánh bạc được xác định là 14.969.000 đồng.

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Về nhận thức, bị cáo biết việc đánh bạc là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là một tệ nạn của xã hội, xâm phạm đến trật tự nếp sống văn minh, trật tự an toàn công cộng tại địa phương. Do đó cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Do bị cáo L có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng Điều 54, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng đủ tính răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người tốt. Do đó, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét.

[5] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo do không có tài sản.

[6] Về xử lý vật chứng:

* 01 (Một) điện thoại di động mặt trước màu trắng, mặt sau màu hồng có in chữ Iphone S, kiểu máy Iphone 6S Plus, số imei: 353316078814863(Kiểm tra trong cài đặt máy), đã qua sử dụng; 01 (Một) sim điện thoại có mã số 89840200021561451342, đã qua sử dụng và 01 (Một) máy tính hiệu CASIO MX-12B, đã qua sử dụng dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

* 02 (Hai) cây bút bi mực màu xanh nhãn hiệu TL-08, 0.8mm, màu trắng xanh, đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với Ngô Quốc V, Lê Thị L không có tiền án, tiền sự, tham gia đánh bạc dưới 5.000.000 đồng nên Công an thị xã H chuyển hồ sơ xử phạt phạm hành chính là có căn cứ.

Đối với những người mua số đề tên Th, M, anh N, C, chị S, dì N và anh S hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với người phụ nữ tên L nhận số đề từ Liêm, hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với anh Nguyễn Ngọc M không biết việc Liêm bán số đề nên không xem xét xử lý.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Thanh L phạm tội “Đánh bạc”.

Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 54 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh L 01 (Một) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (Hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/9/2021).

Giao bị cáo L cho Ủy ban nhân dân phường Long Thành B, thị xã H, tỉnh T giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã được hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

2.1 Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước của bị cáo 01 (Một) điện thoại di động mặt trước màu trắng, mặt sau màu hồng có in chữ Iphone S, kiểu máy Iphone 6S Plus, số imei: 353316078814863(Kiểm tra trong cài đặt máy), đã qua sử dụng; 01 (Một) sim điện thoại có mã số 89840200021561451342, đã qua sử dụng và 01 (Một) máy tính hiệu CASIO MX-12B, đã qua sử dụng.

2.2 Tịch thu tiêu hủy 02 (Hai) cây bút bi mực màu xanh nhãn hiệu TL-08, 0.8mm, màu trắng xanh, đã qua sử dụng.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc số 105/2021/HS-ST

Số hiệu:105/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về