Bản án về tội đánh bạc (đánh phỏm ăn tiền) số 22/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIỄN CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2020/HS-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh N, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:

19/2020/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/QĐXXST - HS ngày 24 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/ Họ và tên: Võ Xuân Â; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 11 tháng 8 năm 1956; Sinh trú quán: Xóm 3, xã DT, huyện D, tỉnh N, Dân tộc; Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 7/10; Nghề nghiệp: Hưu trí; Con ông: Võ Xuân B, sinh năm 1934 và bà Nguyễn Thị D (đã chết); Vợ Hoàng Thị S, sinh năm 1961; Con: có ba con, lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 1990; Tiền án: không;

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 23/QĐ-XPHC ngày 02/10/2019 của công an xã DT xử phạt Võ Xuân  1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Nộp tiền phạt vào ngày 08/10/2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 1/9/2020 đến ngày 1/11/2020, có mặt tại phiên tòa.

2/ Họ và tên: Cao Cự Â1; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 15 tháng 9 năm 1957 tại, xã DT, huyện D, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT: Phường 4, thành phố VT, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; Trú quán: Xóm 7, xã DT, huyện D, tỉnh N; Dân tộc; Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 7/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Cao Cự L (đã chết) và Võ Thị Đ (đã chết); Vợ Phạm Thị H, sinh năm 1962; Có hai con, lớn sinh năm 1984, nhỏ sinh năm 1992; Tiền án: không;

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 04/QĐ-XPHC ngày 02/7/2020 của công an xã DT, huyện D xử phạt Cao Cự Â1: 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Nộp tiền phạt vào ngày 07/7/2020.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 1/9/2020 đến ngày 1/11/2020, có mặt tại phiên tòa.

3/ Họ và tên: Hoàng Đình D; Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 20 tháng 2 năm 1970; Sinh trú quán: xóm 3, xã DT, huyện D, tỉnh N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 7/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông Hoàng Đình T (đã chết) và bà Cao Thị T, sinh năm 1930; Vợ: Cao Thị H, sinh năm 1975; Con: có 5 con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2010; Tiền án, không;

Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 25/QĐ-XPHC ngày 2/10/2019 của công an xã DT xử phạt Hoàng Đình D 1.500.000 (Một triệu năm trăm ngàn) đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”. Nộp tiền phạt vào ngày 08/10/2019.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 1/9/2020 đến ngày 1/11/2020, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Quang T, sinh năm 1963 Trú tại: Xóm 1, xã DT, huyện D, tỉnh N (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ 20 phút ngày 11 tháng 7 năm 2020, Cao Cự Â1, Hoàng Đình D và Đặng Quang T đều trú tại xã DT, huyện D, tỉnh N đến nhà Võ Xuân  để chơi uống nước và đánh cờ; đến khoảng 11 giờ cùng ngày cả bốn người rủ nhau đánh phỏm ăn tiền, theo quy ước: người nào ù sẽ thắng cả 3 người, mỗi người thua sẽ phải trả 50.000 đồng cho người ù; nếu không ù thì các người chơi sẽ trả tiền cho người về nhất theo thứ tự: người về thứ hai trả 10.000 đồng, người thứ ba trả 20.000 đồng, người thứ tư 30.000 đồng; nếu có người cháy (không có phỏm) thì phải trả cho người thắng 40.000 đồng. Đến 14 giờ 50 phút cùng ngày, công an xã DT phát hiện bắt quả tang thu tại chiếu bạc 1.180 .000 đồng (một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng) các đối tượng đánh bạc, một bộ bài tú lơ khơ 52 quân. Công an xã DT đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải các đối tượng về trụ sở để điều tra, làm rõ.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận dùng tiền đánh bạc như sau:Võ Xuân  dùng 400.000 đồng để đánh bạc, Cao Cự Â1 dùng 300.000 đồng để đánh bạc, Hoàng Đình D dùng 180.000 đồng để đánh bạc, Đặng Quang T dùng 300.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt tiền đánh bạc các đối tượng đều đang để tại chiếu bạc.

Tại kết luận giám định số 351/KL- PC 09 (Đ3) ngày 9/9/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Số tiền gửi giám định là 1.180.000 đồng (một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng) do Công an huyện D gửi tới giám định theo quyết định trưng cầu giám định số 224 ngày 3/9/2020 là tiền Việt Nam đồng (tiền thật) Tại bản cáo trạng số 175/CT-VKSDC ngày 05 tháng 11 năm 2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh N truy tố các bị cáo Võ Xuân  , Cao Cự Â1 và Hoàng Định D về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 điều 321; điểm i, s khoản 1 điều 51; điều 36 Bộ luật hình sự 2015; xử phạt các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1, Hoàng Đình D mỗi bị cáo từ 6 tháng đến 9 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập kinh tế thấp nên miễn khấu trừ thu nhập.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tịch thu sung quỹ nhà nước 1.180.000 đồng tiền đánh bạc, tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ không còn giá trị sử dụng.

Tại phiên tòa, các bị cáo không tranh luận gì về tội danh, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện D, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án thì đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 14 giờ 50 ngày 11 tháng 7 năm 2020, tại nhà ở của Võ Xuân  thuộc xóm 3, xã DT, huyện D, tỉnh N, công an xã DT, huyện D, tỉnh N đã phát hiện bắt quả tang về hành vi đánh bạc và thu giữ của Võ Xuân Â, Cao Cự Â1, Hoàng Đình D và Đặng Quang T một bộ bài tú lơ khơ 52 quân và tiền đánh bạc là 1.180.000 đồng. Các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1 và Hoàng Đình D đã bị xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Đánh bạc trái phép” chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính nhưng lại tiếp tục đánh bạc nên hành vi phạm tội lần này đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Vụ án thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng; hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự trị an công cộng, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương, làm băng hoại đạo đức, lối sống, thuần phong mỹ tục và gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của bản thân, gia đình và xã hội là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây dư luận xấu trong nhân dân. Đánh bạc là tệ nạn xã hội mà Nhà nước nghiêm cấm dưới mọi hình thức nên cần lên một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để có tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn nên tính chất, vai trò ngang nhau trong vụ án. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo phạm tội lần đầu, trong trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm i, s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là đủ nghiêm.

[5] Hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 3 điều 321 BLHS quy định:

“Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng”, do dó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo đều không có thu nhập, kinh tế khó khăn nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) và không khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo.

Đối với đối tượng Đặng Quang T cùng tham gia đánh bạc với bị cáo nhưng do chưa có tiền án, tiền sự, số tiền sử dụng đánh bạc chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện D đã xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc trái phép”là đúng quy định của pháp luật.

[6]. Xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tịch thu sung quỹ nhà nước toàn bộ số tiền 1.180.000 đồng (Một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng) các đối tượng dùng để đánh bạc; tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân là phương tiện dùng để đánh bạc hiện không còn giá trị sử dụng.

[7]. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, các bị cáo mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự;

- Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1 và Hoàng Đình D đều phạm tội “Đánh bạc”.

- Xử phạt các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1 mỗi bị cáo 08 (tám) tháng cải tạo không giam giữ.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Đình D 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ kể từ ngày UBND xã DT, huyện D, tỉnh N nhận được quyết định Thi hành án và bản sao bản án.

Giao các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1 và Hoàng Đình D cho UBND xã DT, huyện D, tỉnh N giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát giáo dục đối với các bị cáo.

Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu và tiêu huỷ 01 (một) bộ bài tú lơ khơ 52 quân không còn giá trị sử dụng. Vật chứng hiện đang lưu tại Chi cục thi hành án dân sự huyện D, tỉnh N theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 0013 ngày 09/11/2020.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 1.180.000 đồng (Một triệu một trăm tám mươi ngàn đồng) hiện đang lưu gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện D theo Biên bản giao nhận số 61/2020 ngày 15/9/2020.

3. Về án phí: Buộc các bị cáo Võ Xuân Â, Cao Cự Â1 và Hoàng Đình D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội đánh bạc (đánh phỏm ăn tiền) số 22/2020/HS-ST

Số hiệu:22/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diễn Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về