Bản án về tội cướp tài sản số 776/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 776/2021/HS-PT NGÀY 18/11/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 18/11/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 676/2021/TL.HSPT ngày 04/10/2021 đối với bị cáo Trương Trung H, Nguyễn Ngọc H do có kháng cáo của bị cáo Trương Trung H, ông Trương T là Đại diện hợp pháp của bị cáo H, bà Đỗ Thị A là Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Ngọc H; kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đối với bản án hình sự sơ thẩm số 162/2021/HS-ST ngày 08/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện TT, thành phố H.

- Bị cáo, người Đại diện hợp pháp của bị cáo có kháng cáo được triệu tập đến phiên tòa:

1, Trương Trung H, sinh ngày 03/4/2004 tại thành phố H (khi phạm tội 16 năm 07 tháng 23 ngày tuổi); Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: cụm 2, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: học sinh; Trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Trương Văn T và bà Nguyễn Thị T; Danh chỉ bản số 0000006xx, lập ngày 05/12/2020 tại Công an huyện TT, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Trung H: Ông Trương T, sinh năm 1963 (bố bị cáo); Cư trú: cụm 2, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Trung H: Ông Vũ Hồng H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; Có mặt.

2, Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 25/4/2006 tại thành phố H (khi phạm tội 14 năm 07 tháng 01 ngày tuổi); Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: cụm 1, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: học sinh; Trình độ học vấn: 07/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Ngọc S (đã chết) và bà Đỗ Thị A; Danh chỉ bản số 0000006xx, lập ngày 05/12/2020 tại Công an huyện TT, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

- Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Ngọc H: Bà Đỗ Thị A, sinh năm 1976 (mẹ bị cáo); Cư trú: cụm 1, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc H: Bà Nghiêm Thị Ng -Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố H; Có mặt.

- Viện kiểm sát nhân dân thành phố H kháng nghị phúc thẩm theo Quyết định số 04 ngày 07/7/2021.

Ngoài ra trong bản án sơ thẩm còn có bị cáo Nguyễn Văn Đ; người Đại diện hợp pháp của bị cáo Đ; người bào chữa cho các bị cáo; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu mua 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus để sử dụng nên Trương Trung H lên mạng xã hội facebook để tìm kiếm thông tin. Thấy tài khoản “Nguyễn Văn Q” của anh Nguyễn Văn Q (sinh ngày: 07/4/2002; HKTT: đội 12, xã VL, huyên TY, tỉnh BG) đăng bán điện thoại. Ngày 18/11/2020, H sử dụng tài khoản “H Trương” nhắn tin thỏa thuận mua bán điện thoại với anh Q. Khoảng trưa ngày 19/11/2020, tại số 35 phố TT,quận CG, thành phố H, anh Q đã bán cho H 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus-32G (phiên bản Quốc tế) với giá 3.000.000 đồng. Quá trình sử dụng, thấy điện thoại bị lỗi (không nhận sim và dung lượng pin giảm nhanh) nên H nhiều lần nhắn tin cho anh Q đề nghị trả lại điện thoại và lấy lại tiền nhưng anh Q không đồng ý và chặn tài khoản facebook của H. Do vậy, H nảy sinh ý định sử dụng tài khoản facebook khác nhắn tin cho anh Q giả vờ mua điện thoại sau đó sẽ đánh anh Q để cướp tài sản nên tối ngày 20/11/2020, H sử dụng tài khoản facebook mang tên “Kevil Trần” nhắn tin vào facebook mang tên “Nguyễn Văn Q” hỏi mua của anh Q 01 chiếc điện thoại Iphone 8 với giá 5.900.000 đồng. Trước đó, H đã kể lại sự việc cho bạn là Nguyễn Ngọc H, Nguyễn Văn Đ và rủ H, Đ cướp tài sản của anh Q. Cả ba thống nhất: H sẽ liên lạc giả vờ mua điện thoại và hẹn gặp anh Q ở khu vực trường THCS Th.L là nơi trời tối, vắng người qua lại để dễ cướp tài sản; H giả làm người mua điện thoại để gặp anh Q; H và Đ sẽ đứng chờ ở khu vực gần đấy; khi anh Q đưa điện thoại cho H kiểm tra thì tất cả sẽ cùng đánh anh Q để cướp chiếc điện thoại trên. Sau khi bàn bạc xong, H tiếp tục sử dụng tài khoản facebook “Kevil Trần” nhắn tin hẹn gặp anh Q tại khu vực trường THCS Th.L vào tối ngày 26/11/2020 để mua chiếc điện thoại Iphone 8 theo thỏa thuận trước đó.

Khoảng 19 giờ ngày 26/11/2020, H điều khiển xe mô tô BKS: 29H1-97860 đến nhà Đ ở cụm 1, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H, sau đó H cũng đến nhà Đ; H và Đ tháo BKS: 29H1-97860 ra khỏi xe mô tô của H và tháo BKS:

29M1-73695 trên xe mô tô của Đ; H, Đ, H cùng đeo khẩu trang trên mặt để tránh bị phát hiện; trước khi đi, H bảo Đ cầm theo gậy rút ba khúc (bằng kim loại, dài 65cm, đường kính 02cm) để đánh anh Q. Tiếp đó, H điều khiển xe mô tô chở H, còn Đ đi xe mô tô một mình đến khu vực trước cổng trường THCS Th.L. Do thấy cổng trường sáng điện và có nhiều người qua lại nên Đ bảo H hẹn anh Q đến khu vực trước cổng chùa Q.A là nơi trời tối hơn và vắng người qua lại. H liền sử dụng điện thoại Nokia lắp sim số 0364.357.677 gọi vào số điện thoại 0582.018.294 của anh Q hẹn đến khu vực chùa QA. Cả nhóm cùng nhau đi đến khu vực cách chùa QA khoảng 20 mét thì H và Đ đứng đợi, còn H điều khiển xe mô tô của H đến khu vực cổng chùa QA thì gặp anh Q và bạn là anh Nguyễn Q Tuấn (sinh ngày: 08/10/2002; HKTT: thôn Đ, xã NV, huyện TY, tỉnh BG). Anh Q hỏi H có phải người đặt mua điện thoại Iphone 8 không thì H trả lời là đúng nên đưa cho H chiếc điện thoại Iphone 8 màu vàng để kiểm tra. H cầm chiếc điện thoại Iphone 8 anh Q đưa, giả vờ kiểm tra máy. Cùng lúc này, H và Đ đứng quan sát thấy anh Q đã đưa điện thoại cho H cầm. Đ nói với H: “Nó đi hai người có đánh không” thì H nói: “Sợ gì. Minh có gậy cơ mà, làm thôi”. Đ đưa chiếc gậy rút ba khúc cho H cầm và điều khiển xe mô tô chở H đến chỗ H, anh Q và anh Tuấn đang đứng. H cầm gậy rút ba khúc đánh vào mặt và người anh Q. Đ cũng dùng tay không đánh đấm anh Q. H dùng hai tay dúi đầu anh Tuấn xuống định đánh nH anh Tuấn vùng ra bỏ chạy được. H tiếp tục quay sang dùng tay không cùng H, Đ đánh anh Q. Thấy anh Q bỏ chạy ra hướng chùa Q Ân và hô cướp nên H cầm điện thoại Iphone 8 ngồi lên xe H cùng với Đ phóng xe bỏ chạy về nhà Đ. Sau đó, H đưa chiếc điện thoại Iphone 8 cho H cất giữ, H trả lại Đ chiếc gậy rút ba khúc bằng kim loại, H và Đ lắp lại 02 chiếc biển kiểm soát xe máy rồi cả nhóm đi về nhà. Sau khi xảy ra sự việc, anh Q đến Cơ quan Công an trình báo và được đưa đến bệnh viện Quân y 103 để điều trị.

Qua rà soát, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT đã triệu tập Trương Trung H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Ngọc H đến trụ sở làm việc. Tại Cơ quan điều tra, H, Đ và H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Kết quả dẫn giải, H xác định nơi cất giấu chiếc điện thoại Iphone 8 là tang vật của vụ án tại nhà của H ở cụm 2, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H. Đ xác định nơi cất giấu các phương tiện sử dụng vào việc phạm tội là tại nhà của Đ ở cụm 1, thôn QĐ, xã VQ, huyện TT, thành phố H.

Ngày 08/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TT ra quyết định trưng cầu định giá đối với chiếc điện thoại Iphone 8 là tang vật của vụ án.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 674/KLGĐ ngày 09/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện TT kết luận: “01 chiếc điện thoại Iphone 8 - 64G có giá trị 5.300.000 đồng”.

Quá trình điều tra: bị hại anh Nguyễn Văn Q khai diễn biến vụ việc như đã nêu trên; đối với thương tích do bị nhóm của H đánh, anh Q từ chối giám định thương tích, không yêu cầu bồi thường dân sư; đối với chiếc điện thoai Iphone 8 thuộc sở hữu của anh Q, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Q, sau khi nhận lại điện thoại, anh Q không yêu cầu về dân sự.

Quá trình điều tra, gia đình các bị cáo đã góp tiền bồi thường cho anh Q số tiền 4.000.000 đồng. Anh Q đã nhận tiền bồi thường và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho H, Đ và H.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 162/2021/HS-ST ngày 08/6/2021 của Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H đã quyết định:

Tuyên bố: Trương Trung H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Ngọc H phạm tội “Cướp tài sản” Căn cứ: điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt: Trương Trung H 06 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020.

Căn cứ: điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 2 Điều 101; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Ngọc H 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; án phí; quyền kháng cáo của các bị cáo, người Đại diện hợp pháp cho các bị cáo; người bào chữa cho các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 17/6/2021 bị cáo Trương Trung H và ông Trương T là người Đại diện hợp pháp của H kháng cáo xin giảm hình phạt; ngày 18/6/2021 bà Đỗ Thị A là người Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Ngọc H kháng cáo xin được cải tạo không giam giữ; ngày 07/7/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố H kháng nghị về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Ngọc H theo hướng đề nghị giảm hình phạt và cho hưởng án treo.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Trương Trung H và ông Trương T là người Đại diện hợp pháp của H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; H khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra và xin giảm hình phạt.

- Bà Đỗ Thị A là người Đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Ngọc H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; H không có ý kiến gì về kháng cáo của bà Anh, khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra và xin được cải tạo không giam giữ.

- Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm kháng nghị theo Quyết định số 04 ngày 07/7/2021 và có quan điểm:

+ Về hình thức: đề nghị xem xét đơn kháng cáo của Trương Trung H, người Đại diện hợp pháp của H, người Đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H theo trình tự phúc thẩm.

+ Về nội dung: đề nghị chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Trương Trung H, người Đại diện hợp pháp của H và xét xử H từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; đề nghị chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người Đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và xét xử H 3 năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; đối với Nguyễn Văn Đ thì tuy Đ, người Đại diện hợp pháp, người bào chữa không kháng cáo nhưng đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đề nghị giảm hình phạt và xét xử Đ từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm tù về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự; các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

- Người bào chữa cho Trương Trung H có quan điểm: không có ý kiến về tội danh, luật sơ thẩm xét xử; bị cáo dưới 18 tuổi chưa ý thức được đầy đủ hành vi của mình là vi phạm pháp luật; bị hại có lỗi bán điện thoại kém chất lượng; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn; nhân thân tốt; khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; đã bồi thường thương tích cho bị hại; bị hại xem giảm hình phạt; đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo như Viện kiểm sát đề xuất.

- Người bào chữa cho Nguyễn Ngọc H có quan điểm: không có ý kiến về tội danh, luật sơ thẩm xét xử; bị cáo dưới 16 tuổi chưa ý thức được đầy đủ hành vi của mình là vi phạm pháp luật; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bố mất sớm;

đồng ý quan điểm của Viện kiểm sát; đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau: [1] Về hình thức:

Đơn kháng cáo của Trương Trung H, ông Trương T người Đại diện hợp pháp của H và bà Đỗ Thị A người Đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H; kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong thời hạn Luật định nên được chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của H, H tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của Đ, bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:

Tháng 11/2020, Trương Trung H mua của anh Nguyễn Văn Q 01 điện thoại Iphone 6S Plus. Quá trình sử dụng thấy điện thoại bị lỗi, H muốn trả lại, anh Q không đồng ý nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại khác của anh Q. H rủ Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Ngọc H cùng tham gia. H, Đ, H bàn bạc H gọi điện cho anh Q hỏi mua điện thoại Iphone 8 có trị giá 5.300.000 đồng và hẹn anh Q ngày 26/11/2020 mua bán điện thoai tại khu vực thôn Tr, xã Th.L, huyện TT, thành phố H; H giả làm người mua điện thoại; H, Đ đứng gần đó; khi anh Q đưa điện thoại cho H thì tất cả cùng đánh anh Q chiếm đoạt điện thoại.

Ngày 26/11/2020, H bảo Đ cầm theo gậy rút ba khúc bằng kim loại và điều khiển xe mô tô biển số 29H1-97860 chở H; Đ điều khiển xe mô tô biển số 29M1- 73695 đi gặp anh Q tại khu vực chùa Q Ân thuộc thôn Tr, xã Th.L, huyện TT, thành phố H; khi anh Q đưa cho H chiếc điện thoại Iphone 8 thì H cầm gậy rút ba khúc bằng kim loại cùng Đ, H dùng chân tay đánh anh Q. Thấy anh Q bỏ chạy thì H cầm điện thoại Iphone 8 lên xe H, cùng Đ bỏ đi. Sau khi sự việc xảy ra, anh Q đã đến Cơ quan công an trình báo.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử Trương Trung H, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Ngọc H về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét các yêu cầu kháng cáo, kháng nghị thấy:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ nên cấp sơ thẩm đã xử phạt các bị cáo hình phạt tù có thời hạn là phù hợp với quy định.

H, Đ, H là đồng phạm cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, trong đó H có vai trò là người chủ mưu, khởi xướng và thực hiện hành vi phạm tội; Đ có vai trò là người giúp sức cho H, chuẩn bị hung khí và tham gia hành vi phạm tội; H có vai trò là người giúp sức tham gia thực hiện hành vi phạm tội.

Khi lượng hình, thấy:

- Đối với Trương Trung H: nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã bồi thường cho anh Q; tại phiên tòa khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; anh Q có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ thấy bị cáo phạm tội lần đầu, điện thoại chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho bị hại, khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên giảm hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

- Đối với Nguyễn Ngọc H: nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội đã cùng H bồi thường cho anh Q; tại phiên tòa khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn; anh Q có đơn xin giảm hình phạt cho bị cáo. Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, vai trò giúp sức, khi phạm tội chưa đủ 16 tuổi nên mở lượng khoan hồng của pháp luật giảm một phần hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và cho được cải tạo ngoài xã hội, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú.

Từ nhận định trên, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Trương Trung H và người đại diện hợp pháp của H; chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H; chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát theo hướng sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho Trương Trung H; giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với Nguyễn Ngọc H.

- Đối với Nguyễn Văn Đ thấy: tuy bị cáo, người đại diện hợp pháp và luật sư bào chữa cho bị cáo không kháng cáo nhưng xét nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội cũng đã cùng H bồi thường cho bị hại; quá trình giải quyết vụ án khai báo thành khẩn; ăn năn hối cải; bị hại xin giảm hình phạt; khi phạm tội mới 16 năm 03 tháng 28 ngày tuổi; vai trò giúp sức nên để đảm bảo công bằng và bị cáo yên tâm cải tạo giảm hình phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

[3] Về án phí: bị cáo Trương Trung H, ông Trương T là người đại diện hợp pháp cho H, bà Đỗ Thị A là người đại diện hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355; điểm c, e khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Trương Trung H và ông Trương T là người đại diện hợp pháp của Trương Trung H; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Đỗ Thị A là người đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 04 ngày 07/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 162/2021/HS-ST ngày 08/6/2021 của Toà án nhân dân huyện TT, thành phố H; Giảm hình phạt cho Trương Trung H; Giảm hình phạt cho Nguyễn Văn Đ; Giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với Nguyễn Ngọc H.

- Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 38; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự Xử phạt: Trương Trung H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020.

- Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 38; Điều 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 27/11/2020 đến ngày 05/12/2020.

- Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 168; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 65; Điều 91; khoản 2 Điều 101 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Ngọc H 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản”, nH cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã VQ, huyện TT, thành phố H giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu Nguyễn Ngọc H cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc H phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

II. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: bị cáo Trương Trung H, ông Trương T là người đại diện hợp pháp của Trương Trung H, bà Đỗ Thị A là người đại diện hợp pháp của Nguyễn Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

III. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án là ngày 18/11/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp tài sản số 776/2021/HS-PT

Số hiệu:776/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về