TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 379/2022/HS-PT NGÀY 27/04/2022 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 27/4/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 956/2021/TLPT-HS ngày 22/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án hình sự ra xét xử phúc thẩm số 206/2022/QĐXXPT-HS ngày 18/3/2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị Y do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2021/HS-ST ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, Thành phố Hà Nội.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Y, sinh năm 2000 tại Phú Thọ; Nơi ĐKHKTT: Khu X, xã PN, huyện PN, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ, Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; Có chồng là Nguyễn Anh H (đã ly hôn) và con chung sinh năm 2017; chồng thứ 2: Lê Quang T1; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.
- Trong vụ án còn có 02 bị cáo không kháng cáo và không bị kháng nghị.
- Bị hại không kháng cáo: Anh Lê Quang T1, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: thôn ĐĐ, xã ĐL, huyện CK, tỉnh Phú Thọ (Không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua mạng xã hội Facebook, Nguyễn Thị Y có quen biết Đỗ Quyết T và thường nhắn tin, gọi điện qua ứng dụng Facebook với nhau. Y kể cho T về việc chồng của Y là anh Lê Quang T1 (đã ly thân) đã lấy trộm của Y số tiền 10.000.000 đồng (là tiền Y để dành để sinh con vì Y đang mang thai) và nhờ T có biết T1 ở đâu thì thông báo cho Y để đến đòi tiền. Ngày 09/5/2021, Y gọi điện thoại cho T nói T1 đang ở khu vực bến xe MĐ, Y đang đi xe khách xuống gặp T1 để nói chuyện tiền bạc, Y nhờ T đi cùng để đòi tiền, T đồng ý. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T đến khu vực bến xe MĐ đón Y, trên đường đi gặp T1, Y nói với T khi đòi nợ T1 thì chưa cần đánh vội mà để Y xử lý trước. Do nghĩ việc đòi nợ T1 sẽ xảy ra đánh nhau nên T bảo Y để “gọi thêm người”, Y đồng ý. T gọi điện cho Lê Văn Đ rủ Đ đi cùng để giải quyết công việc, Đ đồng ý và hỏi T: “Có cần mang theo đồ (hung khí) không”, T trả lời: “Không cần” và hẹn gặp Đ tại khu vực quán Karaoke 5 Sao trên đường TVB, phường PC, NTL, Hà Nội. Khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T và Y đến địa điểm trên thì gặp Đ. Tại đây, Y nói chuyện với Đ về việc T1 lấy tiền của Y, Đ hiểu ý Y là chờ T1 đến để đòi tiền. Khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, anh T1 đi taxi đến khu vực trước cửa quán Karaoke 5 sao thấy Y đang đứng trước cửa nhà X, XP Garden, PC, NTL, Hà Nội nên gọi Y đến gần xe taxi nói chuyện. Trong lúc đang nói chuyện, anh T1 định bỏ đi thì Y giật cửa xe ô tô, hai bên giằng co, Y mất đà nên bị ngã ngồi ra đường, Lê Văn Đ thấy vậy nên đi xe máy lên chặn đầu xe taxi rồi mở cửa sau bên trái dùng chân đạp anh T1 01 cái vào hông làm anh T1 ngã sang phía cửa bên, Đỗ Quyết T thấy vậy cũng chạy ra chặn cửa xe sau đó T túm cổ áo rồi cùng Đ lôi anh T1 ra khỏi xe taxi đưa lên vỉa hè. Lúc này Y, T1, T ngồi xổm còn Đ thì đứng cạnh anh T1, Y bắt anh T1 trả 10.000.000 đồng nhưng anh T1 chỉ nhận lấy 5.000.000 đồng. Đ thấy vậy dùng đầu gối phải lên gối một cái trúng vào mặt anh T1 nên anh T1 xin đừng đánh vì sống mũi anh làm giả. Y tiếp tục bắt anh T1 trả tiền nhưng anh T1 nói không có tiền: Đ quát yêu cầu anh T1 bỏ hết đồ trên người ra ngoài, Y kiểm tra thấy có 650.000 đồng và 01 điện thoại di động Iphone 5S. Do thấy có đông người qua lại nên Đ yêu cầu tất cả về khu vực bãi đất trống gần cổng trường Vietinbank trong KĐT Vigracera tổ X XP, NTL, Hà Nội để giải quyết. Tại đây, Đ bắt anh T1 bỏ hết đồ đạc trong người ra và nói: “Giờ thế nào”, anh T1 nói giờ chỉ còn 650.000 đồng và điện thoại, Y bắt anh T1 phải trả ngay số tiền 10.000.000 đồng, do sợ bị đánh nên anh T1 phải nhận và nói chỉ có 650.000 đồng, Y bắt anh T1 đưa số tiền này và phải đi bán chiếc điện thoại di động Iphone 5S đang sử dụng để lấy tiền đưa cho Y, vì sợ bị đánh nên anh T1 đồng ý. Sau đó Đ đi về công ty, còn T chở anh T1 và Y đi đến cửa hàng điện thoại di động L Mobi tại địa chỉ số X đường PC, PC, NTL, Hà Nội do anh Lương Văn L, sinh năm 1996; NKTT: thôn TL, xã HĐ, huyện HH, Thanh Hóa làm chủ bán được 800.000 đồng. Sau khi bán được điện thoại thì Đ gọi điện đến cho T hỏi và bảo đưa anh T1 về khu vực bãi đất trống tại TDP số X, PC, NTL, T chờ anh T1 và Y về bãi đất trống thì thấy Đ điều khiển xe ô tô cẩu tự hành ra đến nơi và dừng lại. Do Y đã lấy của anh T1 tổng cộng 1.450.000 đồng, làm tròn thành 1.500.000 đồng nên Y bắt anh T1 phải viết giấy nợ số tiền còn lại là 8.500.000 đồng. Y bảo Đ lấy giấy bút, Đ lên xe ô tô xé 02 tờ giấy trắng (loại giấy tập học sinh) và cầm cây bút bi xuống đưa cho anh T1, Y và T đã đọc nội dung cho anh T1 viết. Vì sợ bị đánh nên anh T1 đồng ý viết giấy nợ Y số tiền 8.500.000 đồng và hẹn trả làm 02 lần. Lần 1 vào ngày 11/5 trả 3.500.000 đồng; Lần 2 vào ngày 18/5 trả số tiền còn lại 5.000.000 đồng. Đ cầm điện thoại soi đèn cho anh T1 viết 02 tờ giấy có nội dung giống nhau, anh T1 cầm 01 bản, 01 bản Y cầm sau đó đưa cho T cất giữ và nhờ Đ đứng ra thu hộ tiền nợ của anh T1. Sau đó, T và Y chở anh T1 đến ngã tư Canh, tại đây Y đưa lại cho T1 100.000 đồng để anh T1 bắt xe ôm về, còn T tiếp tục chở Y về KM, PD, BTL để Y bắt xe về quê. Trưa ngày 11/5/2021, anh T1 hẹn gặp Đ để trả tiền nhưng do bận việc nên Đ đã nhờ chị Lê Thị L, sinh năm 1991, trú tại: QY, QL, Nghệ An là người làm cùng công ty đến gặp anh T1 tại chung cư Vigracera, tổ X, phường XP, Nam Từ Liêm để nhận tiền hộ. Chị L đã đến gặp và nhận từ anh T1 1.000.000 đồng (chị Lộc không biết tiền gì). Sau khi giao tiền cho chị Lộc, anh T1 đã đến Công an phường Phương Canh trình báo sự việc. Đến chiều tối cùng ngày, khi biết cơ quan Công an mời Đ lên làm việc thì chị L đã đến Công an phường Phương Canh giao nộp lại số tiền đã nhận của anh T1.
Đối với anh Lê Quang T1, tại Cơ quan điều tra, ban đầu anh T1 khai nhận chỉ lấy số tiền 1.300.000 đồng của Y để mua đồ ăn, T1 không lấy số tiền 10.000.000 đồng của Y và từ chối giám định thương tích. Quá trình điều tra sau đó, Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập đến làm việc để làm rõ các nội dung liên quan đến vụ án và yêu cầu về dân sự nhưng anh T1 không đến làm việc. Xác minh tại địa phương và gia đình, xác định từ tháng 4/2021 đến nay anh T1 không về nhà, gia đình và địa phương không rõ nơi T1 cư trú và làm việc nên Cơ quan điều tra đã ra thông báo tìm người bị hại nhưng chưa tìm được T1.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 269/2021/HS-ST ngày 08/11/2021 của Tòa án Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm b khoản 1 Điều 51 (áp dụng đối với bị cáo Nguyễn Thị Y), Điều 38, Điều 47, Điều 48 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Y, Đỗ Quyết T và Lê Văn Đ phạm tội “Cướp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Y 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Xử phạt bị cáo Đỗ Quyết T 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2021. Xử phạt bị cáo Lê Văn Đ 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2021.
Ngoài ra bản án hình sự sơ thẩm còn quyết định về các biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 23/11/2021, bị cáo Nguyễn Thị Y có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, thể hiện thái độ ăn năn hối cải và công nhận bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo đang nuôi con nhỏ, gia đình bị cáo khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: về tố tụng, các cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định bị cáo Nguyễn Thị Y có đơn kháng cáo là hợp lệ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ các Điều 331; 332; 333 Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của bị cáo về hình thức. Về nội dung kháng cáo của bị cáo: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, thấy rằng việc truy tố, xét xử của cấp sơ thẩm đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét thấy mức án của bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo về nội dung, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì. Sau khi xét xử sơ thẩm, trong thời hạn luật định các bị cáo Nguyễn Thị Y có kháng cáo là hợp lệ, được chấp nhận về hình thức.
[2] Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm quy kết là đúng sự thật khách quan, đúng người, đúng tội, không oan. Đối chiếu lời khai của bị cáo với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/5/2021, tại khu vực bãi đất trống khu đô thị Vigracera, phường PC, quận NTL, Hà Nội, các bị cáo Nguyễn Thị Y, Đỗ Quyết T và Lê Văn Đ đã có hành vi dùng tay, chân đánh, đe dọa và uy hiếp tinh thần anh Lê Quang T1 với mục đích đòi số tiền 10.000.000 đồng mà Nguyễn Thị Y cho rằng anh Lê Quang T1 lấy trộm, qua đó các bị cáo đã chiếm đoạt số tiền 650.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 5S màu trắng trị giá 800.000 đồng của anh T1 và ép anh T1 viết giấy nhận nợ số tiền 8.500.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo chiếm đoạt và nhằm chiếm đoạt của anh Lê Quang T1 là 9.950.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 269/2021/HS-ST ngày 08/11/2021 của Tòa án Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Y phạm tội “Cướp tài sản”; Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 48 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Y 36 tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị Y, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Xuất phát từ việc bị cáo Y nghi ngờ bị hại là anh Lê Quang T1 (là chồng của Y) lấy trộm 10 triệu đồng, nên bị cáo đã cùng với bị cáo Đỗ Quyết T, Lê Văn Đ thực hiện hành vi dùng vũ lực ép anh T1 đưa tiền, điện thoại và phải viết giấy nhận nợ để chiếm đoạt tài sản của anh T1. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến nhân thân, sức khỏe và quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố, xét xử và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đều thành khẩn khai báo và thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả bằng việc tự nguyện bồi thường cho anh Lương Văn L giá trị chiếc điện thoại Iphone 5S, anh L đã giao nộp điện thoại cho cơ quan công an. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. Người bị hại là chồng của bị cáo cũng có một phần lỗi, đã thừa nhận việc có lấy tiền của bị cáo và đây cũng là nguyên cớ dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn: Bố mất khi bị cáo còn nhỏ, bị cáo đang phải nuôi con nhỏ sinh năm 2017. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có hơn 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên có đủ căn cứ để áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm hình phạt cho bị cáo, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt của Điều luật cũng đảm bảo tính nghiêm minh, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.
[5] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh, điều luật áp dụng và hình phạt:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Y, sửa quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt, cụ thể:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Y phạm tội “Cướp tài sản”;
Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54; Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 58 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Y 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thị Y không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp tài sản số 379/2022/HS-PT
Số hiệu: | 379/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về