TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 70/2023/HS-ST NGÀY 30/10/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 10 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2023/TLST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 05 tháng 01 năm 2000, tại huyện N, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm A, xã P, huyện N, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị H; Bị cáo có vợ Nguyễn Thị Ngọc Á và 01 người con, sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2023. Có mặt.
Bị hại: Anh Lê Văn G, sinh năm 1991; Chỗ ở hiện nay: số A, đường L, phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt (Có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 26 tháng 8 năm 2023, Nguyễn Văn T thuê anh Lê Văn G là lái xe G1 chở bị cáo từ Công viên N, thành phố V đi về nhà của T ở xã P, huyện N, tỉnh Nghệ An. Trên đường đi, nhìn thấy anh G có chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone xs Max, loại 64G, vỏ màu vàng nên T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. T chỉ đường cho anh G chở đi đến nhiều địa điểm tại xã N, thành phố V và xã N, huyện N. Trên đường đi, T đã nhiều lần mượn điện thoại của anh G nhằm mục đích giả vờ gọi điện, rồi chọn thời cơ thuận lợi sẽ chiếm đoạt. Do nghi ngờ nên khi đi đến địa phận xã N, huyện N, anh G đã yêu cầu bị cáo lái xe chở anh G. T chở anh G đến trước cổng Trường Trung học cơ sở (THCS) xã P (thuộc xóm C, xã P, huyện N) thì dừng xe và tiếp tục mượn điện thoại di động của anh G và giả vờ gọi cho bạn để mượn tiền. Tiếp đó, T xin số tài khoản ngân hàng của anh G rồi giả vờ nhắn tin gửi cho bạn để nhờ bạn chuyển tiền trả cho anh G. T nói với anh G là T có bạn làm bảo vệ trong Trường THCS xã P và giả vờ gọi điện cho bạn. Lợi dụng lúc anh G sơ hở, T đã cầm máy điện thoại của anh G, nhanh chóng trèo nhảy qua bờ tường phía bên phải cổng trường vào trong sân trường, sau đó thoát ra khỏi trường, bắt Taxi đến một nhà nghỉ ở xã H, thành phố V để nằm ngủ. Ngày hôm sau, Nguyễn Văn T đã thoát tài khoản iCloud, xóa hết dữ liệu trong máy điện thoại của anh Lê Văn G; tháo thẻ SIM của anh G và gắn thẻ SIM của T vào để sử dụng. Đến 17 giờ 00 phút ngày 30 tháng 8 năm 2023, Nguyễn Văn T đến trụ sở Công an xã P, huyện N xin đầu thú và giao nộp lại chiếc điện thoại nhãn hiệu iPhone XS Max, loại 64G, vỏ màu vàng đã chiếm đoạt.
Tại Bản kết luận giám định số 34/KL.ĐG ngày 05/9/2023 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự UBND huyện N kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max, dung lượng 64G, vỏ màu vàng. Số IMEI 1: 357261095751506, số IMEI 2: 357261095883515 (máy cũ đã qua sử dụng) trị giá tại thời điểm chiếm đoạt 6.000.000 đồng.” Bản cáo trạng số 73/CT-VKS-NL ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội "Cướp giật tài sản" theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng. Ngoài ra còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu gì đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không tranh luận và không có ý kiến gì bổ sung.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, tỉnh Nghệ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về bị hại: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt và không có yêu cầu bồi thường. Xét thấy việc vắng mặt của bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử vì quá trình điều tra, truy tố đã có lời khai đầy đủ. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại.
[3] Về tội danh, khung hình phạt: Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và ý kiến trình bày luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn thống nhất, khách quan, phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 26 tháng 8 năm 2023, tại cổng trường THCS xã P ở xóm C, xã P, huyện N, tỉnh Nghệ An, trong quá trình thuê xe G1 của anh Lê Văn G để di chuyển, Nguyễn Văn T đã giả vờ mượn của anh G để gọi điện, sau đó lợi dụng sơ hở của bị hại, T đã thực hiện hành vi cướp giật 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iPhone XS Max, dung lượng 64G, vỏ màu vàng đã qua sử dụng của anh G có trị giá là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về hình phạt chính: Tội phạm thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây lo lắng trong quần chúng nhân dân nơi xảy ra tội phạm. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng mức án phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để quyết định hình phạt. Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo bởi: trong quá trình điều tra và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; thiệt hại xảy ra đã được khắc phục, đã bồi thường thiệt hại tài sản cho bị hại; bị hại cũng đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Sau khi thực hiện hành vi phạm tôi bị cáo đã đến Công an xã P, huyện N đầu thú và giao nộp lại tài sản bị cáo đã chiếm đoạt; Năm 2019 bị cáo là người đã tham gia quân ngũ đến năm 2021 thì xuất ngũ; ông nội của bị cáo là người có công với cách mạng được tặng nhiều huân chương kháng chiến kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, mà cho bị cáo cải tạo giáo dục tại địa phương là đủ nghiêm. Vì vậy, Hộ đồng xét xử quyết định trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo T, nếu bị cáo T không bị tạm giam về một tội phạm khác.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Lê Văn G đã nhận tài sản bị chiếm đoạt, nay không có yêu cầu gì. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản”;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (30/10/ 2023). Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo T, nếu bị cáo T không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T cho Ủy ban nhân dân xã p, huyện N, tỉnh Nghệ An giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã P, huyện N, tỉnh Nghệ An trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp bị cáo Nguyễn Văn T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 của Luật thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 70/2023/HS-ST
Số hiệu: | 70/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về