Bản án về tội cướp giật tài sản số 303/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 303/2022/HS-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án Nhân dân thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 261/2022/TLST-HS ngày 14/7/2022 theo hình thức trực tuY, gồm 02 điểm cầu:

Điểm cầu trung tâm đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, điểm cầu thành phần đặt tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thủ Đức theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 330/2022/QĐXXST-HS ngày 03/8/2022 đối với bị cáo:

Lâm Hoàng T, sinh ngày 22/01/2004; Nơi sinh: tại Giá Rai – Bạc Liêu;

Thường trú: Ấp A, xã B, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lâm Văn G và bà Phạm Ngọc B; Vợ chưa có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2022 (có mặt).

Người bị hại: Chị Chiêm Thị Y, sinh năm: 1987 Địa chỉ: A đường Man Thiện, tổ B, khu phố C, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Văn D, sinh năm: 1968 Địa chỉ: A đường B, phường C, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do muốn có tiền tiêu xài nên Lâm Hoàng T, sinh ngày 22/01/2004, nảy sinh ý định tìm ai sơ hở tài sản thì chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định trên, khoảng 13 giờ 50 phút ngày 15/4/2022, T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 135 biển số: 49K1-498.15 một mình lưu thông trên đường Man Thiện, phát hiện cửa hàng điện thoại di động Vinh địa chỉ: 202 Man Thiện, khu phố 5, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức do chị Chiêm Thị Y, sinh ngày 08/7/1987 làm chủ vắng người nên bị cáo nảy sinh ý định vào cửa hàng điện thoại Vinh chiếm đoạt tài sản. T điều khiển xe đến dựng trước cửa hàng điện thoại Vinh đi vào bên trong cửa hàng gặp chị Y đang đứng một mình bên trong quầy điện thoại, giả vờ hỏi mua điện thoại và yêu cầu chị Y lấy cho xem 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7plus, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30, màu xanh. Tin lời nên chị Y lấy 02 điện thoại này đưa cho T xem, lúc này T tìm cách chiếm đoạt hai điện thoại trên nên đánh lạc hướng nhằm tạo sự mất cảnh giác của chị Y để thuận lợi cho việc chiếm đoạt 02 điện thoại di động này. T yêu cầu chị Y lấy thêm 02 miếng kính cường lực để dán màn hình điện thoại, chị Y lấy 02 miếng dán kiếng cường lực ra cho T. Lợi dụng lúc chị Y đang cúi người mở tủ để lấy miếng dán điện thoại, T nhanh chóng bỏ 02 chiếc điện thoại di động trên vào túi quần bên phải và lên xe để sẵn bên ngoài để tẩu thoát. Lúc này, chị Y đứng dậy phát hiện 02 điện thoại không còn trên quầy và T đã ngồi lên xe mô tô, chị Y vội chạy ra định kéo xe T lại nhưng không được, T nổ máy xe nhanh chóng tẩu thoát chạy ra đường Man Thiện về hướng ngã 3 Man Thiện và Lê Văn Việt thuộc phường Tăng Nhơn Phú A. Chị Y chạy theo tri hô “cướp, cướp” để nhờ người truy bắt T. Anh Phạm Văn Cẩn, sinh năm 1992, điều khiển xe mô tô chở anh Nguyễn Văn Dần, sinh năm 2003 đang lưu thông trên đường Man Thiện nghe tiếng tri hô của chị Y nên đã tăng ga đuổi theo T. Đến đầu hẻm 210, đường Man Thiện, khu phố 5, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức, ép đầu xe của T vào lề đường cùng anh Dần nhanh chóng khống chế, bắt giữ T bàn giao cho Công an phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Bản kết luận định giá tài sản số 29-KV2/KLĐG-HĐĐGTS ngày18/4/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thủ Đức kết luận: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, 32Gb tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 3.060.000 đồng; 01 Điện thoại di động hiệu Samsung A30, màu xanh tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 1.700.000 đồng. Tổng giá trị tài sản tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá: 4.760.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, 32Gb; 01 Điện thoại di động hiệu Samsung A30, màu xanh đã trả lại cho bị hại.

- 01 xe mô tô 49K1 - 498.15, nhãn hiệu: Yamaha, loại Exciter, qua xác minh xác định người đứng tên chủ xe là ông Hoàng Văn D, sinh năm 1968, Thường trú:

150 Nguyễn Thái Học, phường 2, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Ông D khai xe mô tô này đã bán cho người khác, khi bán do người mua không có nhu cầu làm thủ tục sang tên đổi chủ nên chỉ viết giấy tay với người mua, giấy tay đã thất lạc nên không xác định được địa chỉ người mua. Do xe mô tô ông D đã bán cho người khác nên phần dân sự ông D không có yêu cầu gì về xe mô tô trên. Lâm Hoàng T khai nhận: Mua xe mô tô 49K1 - 498.15 của một người đàn ông bên ngoài xã hội với số tiền 15.000.000 đồng vào năm 2021 bằng giấy tay chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ, giấy tay và giấy đăng ký xe đã thất lạc. Xác minh dữ liệu xe mất cắp xác định xe mô tô nói trên không có trong dữ liệu mất cắp.

Trách nhiệm dân sự:

Chị Chiêm Thị Y đã nhận lại tài sản ngày 24/4/2022 và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 257/CT – VKS ngày 12/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố bị cáo Lâm Hoàng T đã phạm vào tội: “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lâm Hoàng T về tội: “Cướp giật tài sản” đồng thời đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 171; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lâm Hoàng T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, bị cáo mong mẹ giữ gìn sức khỏe và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình tố tụng và lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 15/4/2022, Lâm Hoàng T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter 135 biển số 49K1-498.15 đến cửa hàng điện thoại di động Vinh địa chỉ 202 Man Thiện, khu phố 5, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức của chị Chiêm Thị Y, T đã vào cửa hàng giả vờ hỏi mua điện thoại để chị Y giao cho 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7plus, màu đen và 01 điện thoại di động hiệu Samsung A30, màu xanh, tổng giá trị tài sản là 4.760.000 đồng, rồi lợi dụng sơ hở của chị Y, T đã công khai nhanh chóng cầm theo 02 điện thoại lên xe bỏ chạy thì bị bắt quả tang.

Hành vi nhanh chóng cầm theo 02 điện thoại của bị hại rồi bỏ chạy mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội: “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến khách thể là quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm bị cáo nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại chị Y đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên được ghi nhận.

- Giao cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng tải thông tin trên phương T thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của 01 xe mô tô biển số 49K1-498.15 nhãn hiệu Yamaha loại Exciter màu xám đỏ, số máy 55P1205526, số khung: RLCE55P10DY205505.B18. Hết thời hạn nêu trên, nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ khoản 1 Điều 171; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Lâm Hoàng T phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Lâm Hoàng T: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2022.

2- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Giao cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh cho đăng tải thông tin trên phương T thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp của 01 xe mô tô biển số 49K1-498.15 nhãn hiệu Yamaha loại Exciter màu xám đỏ, số máy 55P1205526, số khung: RLCE55P10DY205505.B18. Hết thời hạn nêu trên, nếu không tìm được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

(Theo phiếu nhập kho số NK22/78X ngày 29/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh).

3- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án để tính án phí Tòa án:

Bị cáo Lâm Hoàng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Người bị hại và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 303/2022/HS-ST

Số hiệu:303/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về