Bản án về tội cướp giật tài sản số 106/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 106/2023/HS-ST NGÀY 17/05/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 5 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm đã thụ lý số: 103/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 121/2023/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

- Lương Thanh D, sinh năm: 1991, tại: Bình Dương; Hộ khẩu thường trú: số B đường L, Phường G, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: số E đường N, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc:kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Thanh B, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Kim Đ, sinh năm 1971; Chưa có vợ; tiền án: - Ngày 23/8/2012 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 14 năm tù về tội “Giết người” (theo bản án số 280/2012/HSST – chưa xóa án); tiền sự: Không; Nhân thân: - Ngày 01/9/2011 bị Công an quận B xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tham gia đánh nhau; Tạm giữ,tạm giam: 21/11/2022; (Có mặt).

Bị hại:

- Chị Nguyễn Bảo Phúc C, sinh năm: 2003; Hộ khẩu thường trú: số B khu phố C, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre; Chỗ ở: số G đường N, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh,(Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/- Ông Nguyễn Hạnh P, sinh năm: 1950; Hộ khẩu thường trú: số E khu phố C, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

2/- Ông Lương Thanh B, sinh năm 1958; Hộ khẩu thường trú: số B đường L, Phường G, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: số E đường N, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 21/11/2022, Lương Thanh D tự ý điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 54YA – X của ông Lương Thanh B (bố ruột D) rời khỏi phòng trọ gia đình D đang ở tại địa chỉ 5 N, Phường E, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh để đi chơi với bạn. Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, D điều khiển xe mô tô trên đi ngang qua cây xăng địa chỉ B L, Phường A, quận G, TP . (theo hướng từ đường P ra đường L) thì nhìn thấy chị Nguyễn Bảo Phúc C đang đứng ngay trước cây xăng trên, cùng với chiều đường xe mô tô của D đang di chuyển, mặt chị C hướng ra ngoài đường, hai tay chị C đang cầm điện thoại di động Iphone 12 Pro Max màu trắng, đặt phía trước ngực sử dụng nên D nảy sinh ý định giật điện thoại di động trên của chị C bán lấy tiền tiêu xài. Do xe mô tô D điều khiển đã vượt qua người chị C nên lúc này D cho xe quay lại, chạy ngược chiều đường đến khi thân trái xe mô tô ngang song song, áp sát phần thân trước của người chị C thì D dùng tay trái giật được điện thoại di động Iphone 12 Pro Max mà chị C đang cầm trên tay rồi D tăng ga xe mô tô tiếp tục bỏ chạy trên đường L, sang bên kia đường, đi đúng chiều đường, hướng từ đường L ra đường P. Lúc này, bạn trai của chị C là anh Mai Thanh C1 đang đổ xăng xe tại cây xăng trên trực tiếp quan sát, phát hiện sự việc nên đã điều khiển xe mô tô cá nhân đuổi ngay theo xe mô tô của D và truy hô lớn “Cướp, cướp”. Khi D điều khiểu xe mô tô vừa rẽ vào hẻm địa chỉ 4 L, Phường A, quận G, TP . thì xe mô tô Honda Wave cùng D ngã ra đường hẻm, D cũng vứt điện thoại di động Iphone 12 Pro Max vừa giật được của chị C gần vị trí D ngã xe. Ngay lúc này, anh C1 cùng người dân đi đường và lực lượng tuần tra Công an Phường 01, quận G đang tuần tra bắt giữ được D. Anh C1 tự nhặt lại điện thoại di động Iphone 12 Pro Max mà D vừa giật của chị C được D vứt trên mặt đường, gần vị trí D ngã xe. D được đưa về trụ sở Công an Phường 01, quận G làm việc, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G, Lương Thanh D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Iphone 12 Pro Max màu trắng có số Serial: G0NFF0YX0D50 (điện thoại di động mà bị can D chiếm đoạt của bị hại C). Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 270/KL-HĐĐGTS ngày 30/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự- UBND quận G, điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax, dung lượng 128GB, số serial G0NFF0YX0D50 đã qua sử dụng; Thời điểm định giá: 21/11/2022 trị giá: 10.933.333 đồng”. Ngày 06/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G đã trả cho bà Nguyễn Bảo Phúc C.

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu vàng có số Serial: FK1ZK7B1N70F. D cho biết đầy là tài sản cá nhân của D, không liên quan đến vụ án, ngày 18/02/2023, Cơ quan Cảm sát điều tra Công an quận G đã trả cho Lương Thanh D.

- 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng mang biển kiểm soát: 54YA – X (phương tiện D sử dụng khi thực hiện hành vi giật điện thoại của bị hại C). Phòng K Công an Thành phố H có Kết luận giám định số: 21209/KL-KTHS ngày 02/12/2022 kết luận xe mô tô biển kiểm soát: 54YA - X; Số khung: RRKWCB2UM7XB19422; Số máy: VTT29YX1P39FMB - 019422 không thay đổi.

Qua xác minh tại Công an Thành phố H cho kết quả xe gắn máy có biển kiểm soát: 54YA – X; có Số khung: RRKWCB2UM7XB19422 và có Số máy: VTT29YX1P39FMB019422 không có trong hệ thống dữ liệu xe vật chứng.

Tra cứu hệ thống dữ liệu xe mô tô tại Đội Cảnh sát giao thông Công an quận G cho kết quả xe mô tô biển kiểm soát: 54YA – X; Số khung: RRKWCB2UM7XB19422; Số máy: VTT29YX1P39FMB – 019422 phù hợp với nhau, do ông Nguyễn Hạnh P đứng tên chủ xe.

Làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G về nguồn gốc xe mô tô mang biển kiểm soát 54Y1 – X, ông Nguyễn Hạnh P trình bày ông mua xe mô tô trên vào năm 2008 sử dụng đến năm 2009 thì bán xe trên cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch). Thời điểm giao dịch mua, bán xe sau khi nhận đủ tiền, đôi bên có lập một bản hợp đồng viết tay ghi nhận việc mua, bán xe và người phụ nữ mua xe từ ông P trực tiếp giữ hợp đồng kèm bản gốc Chứng nhận đăng ký xe mô tô, không sang tên đổi chủ xe theo quy định. Ông P cho biết do xe biển kiểm soát: 54YA – X trên đã được ông bán cho người khác, anh P không bị chiếm đoạt xe trên nên không có bất kỳ yêu cầu, đề nghị gì liên quan đến xe này.

Làm việc với ông Lương Thanh B (bố ruột bị can D) về nguồn gốc xe biển kiểm soát: 54YA – X, ông B cho biết trực tiếp mua chiếc xe từ một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại chợ B1, quận B vào năm 2012 với số tiền 8.000.000 đồng. Thời điểm giao dịch, mua bán xe đôi bên có làm một hợp đồng mua, bán xe kèm Chứng nhận đăng ký xe đều do ông B giữ, không làm thủ tục sang tên đổi chủ xe theo quy định.

Cơ quan CSĐT Công an quận G đã đăng báo T1 tìm, làm việc với những người từng sở hữu, quản lý xe mô tô có đặc điểm biển kiểm soát, số khung, số máy trên nhưng đến nay chưa có kết quả.

Phần trách nhiệm dân sự: chị Nguyễn Bảo Phúc C đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu, đề nghị bồi thường gì khác đối với tài sản trên của mình.

Tại bản cáo trạng số 105/CTr-VKS, ngày 11/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lương Thanh D về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d,i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự 2015 đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đề nghị: Áp dụng điểm d,i khỏan 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lương Thanh D từ 04 đến 05 năm tù.

Đề nghị tiếp tục đăng báo tìm chủ sỡ hữu, nếu quá thời gian quy định của pháp luật mà không ai đến nhận thì trả lại cho ông Lương Thanh B chiếc xe gắn máy mang biển số 54YA – X.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Lương Thanh D đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận G, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lương Thanh D đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, giữa nơi công cộng đông người qua lại bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn có tiền để tiêu xài cho bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác rất táo bạo và liều lĩnh. Xét nhân thân bị cáo xấu đã từng bị xử lý về tội “Giết người” với mức án 14 năm tù (Chưa được xóa án). Nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội chứng tỏ thời gian cải tạo của bản án trước chưa đủ giáo dục cho bị cáo và lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sữa đổi bổ sung năm 2017. Do bị cáo sử dụng xe gắn máy là nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện hành vi phạm tội và lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm d,i khỏan 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở. Vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài, nhằm giúp bị cáo sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác, tạo điều kiện cho bị cáo học tập cải tạo lại mình trở thành người công dân tốt hơn sau này có ích cho xã hội đồng thời cũng nhằm có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, gia đình thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xét thấy tính chất vụ án và bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa hôm nay bị hại bà Nguyễn Bảo Phúc C vắng mặt. Nhưng qua hồ sơ thể hiện bà đã nhận lại được chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max hiện không có yêu cầu và thắc mắc khiếu nại gì, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro Max qua xác minh là của bà Nguyễn Bảo Phúc C bị cướp giật. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G đã trả lại chiếc điện thoại trên cho bà Nguyễn Bảo Phúc C. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản là phù hợp với quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

Đối với chiếc 01 (một) điện thoại di động Iphone 11 Pro Max màu vàng qua xác minh là của bị cáo Lương Thanh D là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G đã trả lại cho Lương Thanh D, Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản là phù hợp với quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

- Đối với 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng mang biển kiểm soát: 54YA – X qua xác minh do ông Nguyễn Hạnh P đứng tên sỡ hữu và mua vào năm 2008 sử dụng đến năm 2009 thì bán xe cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch). Thời điểm đó đôi bên có lập một bản hợp đồng viết tay ghi nhận việc mua, bán xe và người phụ nữ mua xe mô tô trên từ ông P trực tiếp giữ hợp đồng kèm bản gốc Chứng nhận đăng ký xe mô tô trên, không sang tên đổi chủ xe theo quy định. Ông P cho biết ông không có bất kỳ yêu cầu, đề nghị gì liên quan đến xe này.

Qua làm việc với ông Lương Thanh B (bố ruột bị can D) về nguồn gốc chiếc xe, ông B cho biết trực tiếp mua chiếc xe biển kiểm soát 54YA – X từ một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại chợ B1, quận B vào năm 2012 với số tiền 8.000.000 đồng có làm giấy mua bán và có giấy đăng ký xe nhưng không làm thủ tục sang tên. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu xe nhưng đến nay vẫn chưa ai đến liên hệ. Xét thấy xe có nguồn gốc rõ ràng và việc mua bán là ngay tình, thời gian đăng trên thông tin đại chúng đã quá thời hạn quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho ông Lương Thanh B chiếc xe mô tô biển số 54YA – X, ông B có trách nhiệm liên hệ cơ quan chức năng thực hiện việc sang tên đổi chủ theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Thanh D phạm tội “Cướp giật tài sản” .

Căn cứ điểm d,i khỏan 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Lương Thanh D 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/11/2022.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Trả lại cho ông Lương Thanh B 01 (một) chiếc xe gắn máy hiệu Wave có biển số 54YA – X; Số khung: RRKWCB2UM7XB19422; Số máy: VTT29YX1P39FMB019422. Ông B có trách nhiệm liên hệ cơ quan chức năng thực hiện việc sang tên đổi chủ theo quy định của pháp luật.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 44/PNK, ngày 10/3/2023 của Công an quận G).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 106/2023/HS-ST

Số hiệu:106/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về