Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 411/2022/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 411/2022/HSPT NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10/5/2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân T phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 159/2022/TL.HSPT ngày 22/02/2022 đối với bị cáo Nguyễn Mạnh C do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, T phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo, được triệu tập đến phiên tòa:

Nguyễn Mạnh C, sinh ngày 06/8/1996 tại tỉnh Yên Bái; Hộ khẩu thường trú: số 11, phố D T, tổ dân phố H, phường H, Thành phố Yên, tỉnh Y; Chỗ ở: số 24, ngõ 33 P, C G, Hà Nội; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Mạnh T và bà Nhâm Thị Hồng P; Danh chỉ bản số 000000307, lập ngày 10/6/2021 tại Công an quận Đống Đa, T phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/5/2021 đến nay; Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an T phố Hà Nội; Có mặt.

Ngoài ra trong bản án sơ thẩm còn có bị cáo Đinh Mạnh T; bị hại chị Vũ Thu T không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 00 phút ngày 30/5/2021, tại khu vực cổng Chùa Láng, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, tổ công tác Công an phường Láng Thượng tuần tra trên địa bàn phát hiện chị Vũ Thu T (sinh năm 2000; trú tại:

thôn 2, xã Minh Quán, Trấn Yên, Yên Bái) đang cãi nhau với Nguyễn Mạnh C và Đinh Mạnh T về việc chị T bị C và T ép trả nợ, nên tổ công tác đã đưa chị T, C và T về trụ sở để làm rõ sự việc.

Tại cơ quan Công an, C, T đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Chị T và C có quan hệ tình cảm từ năm 2018, đến tháng 7/2019 thì chia tay. Trong quá trình yêu nhau, C và chị T tự quay những video quan hệ tình dục với nhau và chụp lại những hình ảnh khỏa thân của chị T. Sau khi chia tay, C và chị T vẫn liên lạc và quan hệ tình dục với nhau. Khoảng tháng 02/2021, C yêu cầu chị T viết một bản cam kết với nhiều nội dung như: một tuần quan hệ tình dục một lần, nếu sai hẹn sẽ bị phạt tiền, nếu chị T quan hệ tình dục với người khác ngoài C sẽ bị phạt tiền ... rồi C và chị T cùng ký tên. Sau đó, C và chị T nhiều lần quan hệ tình dục với nhau, lúc thì C rủ, lúc thì chị T rủ, có lần C rủ nhưng chị T không đồng ý, nên C đã tính tổng tiền phạt những lần đó là 4.000.000 đồng. C yêu cầu chị T chuyển khoản số tiền vào tài khoản Techcombank số 19034148752012, chủ tài khoản là “NGUYEN MANH C”. Ngày 07/4/2021, chị T đã dùng tài khoản Techcombank số 19034942771013, chủ tài khoản là “VU THU T” chuyển số tiền 4.000.000 đồng vào tài khoản của C. Đến ngày 12/4/2021, chị T nói với C là không còn tiền nên C đã chuyển lại cho chị T 3.000.000 đồng với nội dung: “Cho T vay tiền”. Ngày 26/4/2021, chị T chuyển khoản trả cho C số tiền 1.200.000 đồng và còn nợ lại 1.800.000 đồng. Thời gian từ ngày 26/4/2021 đến ngày 28/5/2021, C và chị T có quan hệ tình dục với nhau vài lần và chị T cũng có vài lần vi phạm cam kết giữa hai người. C thống kê đến ngày 28/5/2021, tổng tiền phạt vi phạm cam kết của chị T là 700.000 đồng, cộng với số tiền 1.800.000 đồng chị T nợ C, tổng là 2.500.000 đồng. Vì vi phạm hợp đồng nên C tính số tiền phạt gấp đôi là 5.000.000 đồng. Do C gọi điện và nhắn tin cho chị T nhưng chị T không trả lời nên C đã nhắn tin đe dọa với nội dung nếu chị T không trả tiền thì C sẽ gửi ảnh và video nhạy cảm của chị T đến công ty nơi chị T làm việc và cho người thân của chị T. Chị T không liên lạc với C nên C dùng tài khoản facebook của mình là “Nguyễn T” đăng bài lên mạng xã hội facebook tìm người đi đòi nợ thuê thì Đinh Mạnh T dùng facebook “Keangnam Kevin” vào nói chuyện. T và C thống nhất nếu đòi được tiền thì T sẽ lấy tiền công 50% số tiền tương đương là 2.500.000 đồng. C cung cấp thông tin, địa chỉ của chị T cho T, tiếp đó, C tiếp tục nhắn tin, gọi điện đe dọa chị T nếu không trả tiền sẽ có người lên công ty đánh chị T và có gửi ảnh khỏa thân của chị T lên công ty cho chị T nhục nhã.

Sau khi có thông tin của T thì T đến công ty nơi T làm việc tại số 108 Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội và nhà trọ của T tại số 28, ngõ 402, Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội đòi nợ nhưng T tránh mặt không gặp. Chị T sử dụng facebook “Vũ Thu T” và zalo “Thu T” nói chuyện với T (T sử dụng tài khoản Zalo “Lạc Đường” và tài khoản facebook “KeangNam Kevin”). T chửi T và yêu cầu T trả tiền cho C. T nói không nợ C số tiền 5.000.000 đồng, trước đây yêu nhau nhưng đã chia tay lâu rồi. Hiện C đang giữ hình ảnh khoả thân và video clip khi T với C quan hệ tình dục. Nếu như không đưa C tiền thì C sẽ đăng hình ảnh và video clip của T lên mạng. Khi đó T hỏi lại C về việc vay nợ giữa T và bảo C gửi ảnh khỏa thân của T cho T để T đi đòi nợ nhưng C không gửi. Tiếp đó, T liên tục nhắn tin chửi bới đe dọa T với nội dung “Tao cho mày ba ngày, địt con mẹ; chuyển gửi em tao tiền không thì nghỉ ở công ty đi nhé”, “Mấy tH em anh nó tìm công ty và chỗ trọ em rồi, em không chạy được đâu em à, em là con gái cơ mà”. Vì chị T vẫn chưa đồng ý trả tiền nên T đã nói sẽ đứng ra bênh vực T, giúp T xóa các hình ảnh, video nếu đúng sự thật là C đang ép T trả tiền vì C có hình ảnh khoả thân của T nhưng T sẽ lấy tiền công. Do bị T đe doạ và lo lắng việc C sẽ phát tán ảnh, video clip của mình lên mạng xã hội nên T miễn cưỡng đồng ý gặp T và C để trả tiền.

Ngày 30/5/2021 chị T gặp C và T tại cổng Chùa Láng, phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội. Tại đây, T đã đưa 5.000.000 đồng cho C, C cầm tiền và đưa lại cho T 2.500.000 đồng. Sau đó T và C cãi nhau, tổ công tác Công an phường Láng Thượng mời T, C và T về trụ sở làm rõ.

Tại Cơ quan Công an Nguyễn Mạnh C, Đinh Mạnh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Toà án nhân dân quận Đống Đa, T phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố Nguyễn Mạnh C phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” Áp dụng: khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Mạnh C 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/5/2021. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với Đinh Mạnh T; xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm; quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/01/2022 Nguyễn Mạnh C kháng cáo xin giảm hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; khai báo T khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân T phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: về hình thức đề nghị xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm; về nội dung đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm; các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về hình thức: đơn kháng cáo của Nguyễn Mạnh C nộp trong thời hạn Luật định nên được giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. [2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp lời khai của Đinh Mạnh T; phù hợp lời khai bị hại; phù hợp vật chứng đã thu giữ và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Năm 2018, Nguyễn Mạnh C quan hệ yêu đương với chị Vũ Thu T đến 7/2019 thì chia tay nhưng C vẫn giữ các video nhạy cảm của chị T. Đến khoảng tháng 5/2021 C cho rằng chị T còn nợ C 5.000.000 đồng nên nhắn tin cho chị T nếu không trả tiền thì sẽ phát tán các video nhạy cảm của chị T. Do chị T không liên lạc lại, nên C thỏa thuận thuê Đinh Mạnh T cùng đòi tiền chị T với giá 2.500.000 đồng. Sau đó, C và T liên tục nhắn tin đe dọa chị T nếu không đưa tiền sẽ bị đánh và bị phát tán video nhạy cảm nên đến ngày 30/5/2021, chị T đồng ý gặp C và T tại trước cổng Chùa Láng, phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội để đưa cho C 5.000.000 đồng. Khi C nhận được tiền đã chia lại cho T 2.500.000 đồng.

Với hành vi phạm tội nêu trên, cấp sơ thẩm xét xử Nguyễn Mạnh C và Đinh Mạnh T về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ nên cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo hình phạt tù có thời hạn là phù hợp.

Xét yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Mạnh C, thấy:

Trong vụ án, C có vai trò là người khởi xướng, chủ mưu, thực hiện hành vi phạm tội nên mức hình phạt phải cao hơn T là người có vai trò giúp sức cho C.

Nhân thân của C chưa có tiền án tiền sự. Tình tiết tăng nặng: không Tình tiết giảm nhẹ: tại phiên tòa khai báo T khẩn; sau khi phạm tội đã đầu thú; bà nội và ông ngoại được Nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng Nhất.

Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội; nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của C thấy mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên 20 tháng tù đối với bị cáo là phù hợp, đủ để giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung nên không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm [3] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Mạnh C; Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 12/2022/HS-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, T phố Hà Nội.

Áp dụng: khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Mạnh C 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/5/2021.

II. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

III. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 10/5/2022.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 411/2022/HSPT

Số hiệu:411/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về