TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 810/2021/HSPT NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30/11/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 229/2021/TL.HSPT ngày 10/3/2021 đối với bị cáo Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 của Tòa án nhân dân quận HM, thành phố H.
- Bị cáo có kháng cáo, được triệu tập đến phiên tòa:
1, Nguyễn Anh T, sinh ngày 04/3/1982 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 320, phố ĐC, tổ 19, phường ĐC, quận HM, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề ngH: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị K; Vợ tên là Nguyễn Thị T (đã ly hôn), có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012; Danh chỉ bản số 000000422, lập ngày 07/5/2020 tại Công an quận HM, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2005, Công an quận Thanh Xuân, H xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích. Năm 2012, Công an phường Kh M, H xử phạt hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma Túy; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2020 đến ngày 19/5/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.
2, Nguyễn Đức H, sinh ngày 20/9/1983 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 9B, ngõ 245, phố ĐC, tổ 21, phường ĐC, quận HM, thành phố H; Giới tính: nam; Nghề ngH: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Đức T và bà Vũ Thị H; Vợ tên là Phan Hằng N, có 02 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2014; Danh chỉ bản số 000000420, lập ngày 07/5/2020 tại Công an quận HM, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Năm 2001, Ủy ban nhân dân thành phố H đưa vào cơ sở giáo dục. Năm 2002, Tòa án nhân dân huyện Thanh xử phạt 16 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2020 đến ngày 19/5/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.
- Bị cáo không kháng cáo, được triệu tập đến phiên tòa:
1. Nguyễn Đình Đ, sinh năm 1985; Hộ khẩu thường trú: Khu 10, xã ĐT, huyện H H, tỉnh pt; Chỗ ở: Hẻm 46, ngách 32/15, A D, phường Y P, quận H, thành phố H; Đang chấp hành án tại Trại giam T P; Hiện đang giữ tại Trại tạm giam Công an thành phố H; Có mặt.
2. Đào Văn H, sinh năm 1978; Hộ khẩu thường trú: Tổ 21, phường ĐC, quận HM, thành phố H; Chỗ ở: Số 2B, ngõ 143, N, phường T, quận HM, thành phố H; Đang chấp hành án tại Trại giam T; Hiện đang giữ tại Trại tạm giam Công an thành phố H; Có mặt.
- Bị hại không kháng cáo, được triệu tập đến phiên tòa: Ông Kim Đắc H, sinh năm 1968; Cư trú; Xóm 1, thôn Q, xã V, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.
Ngoài ra trong bản án sơ thẩm còn có Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua quan hệ xã hội Nguyễn Đình Đ quen biết với Đào Văn H và biết H hiện nay đang thuê nhà của ông Kim Đắc H tại địa chỉ số 2B, ngõ 143, NC, phường TL, HM, H nên Đ có nói chuyện với H về việc vợ chồng ông H có vay của Đ số tiền 110.000.000 đồng từ tháng 8/2015 nhưng đến nay chưa trả. Đ đặt vấn đề nhờ H giúp đòi lại số tiền mà chị Nguyễn Thị P là vợ ông H đã vay trước đây và được H đồng ý. H thống nhất với Đ khi nào đến kì thanh toán tiền nhà cho ông H thì H sẽ thông báo cho Đ biết để đến gặp và đòi tiền của ông H. Cả hai cùng bàn bạc và thống nhất việc H đòi nợ ông H giúp Đ bằng cách sẽ giả bộ đứng ra trả nợ thay ông H và ông H sẽ trả nợ H bằng cách trừ nợ dần tiền nhà H đang thuê của ông H.
Khoảng 20h00’ ngày 21/4/2020 ông H gọi điện thoại cho H hẹn đến 17h00’ngày 22/4/2020 đến gặp H để lấy tiền thuê nhà. Sau đó H gọi điện thoại thông báo cho Đ và cả hai thỏa thuận sẽ nhờ thêm 01 số người đi cùng Đ đến gặp ông H đế gây sức ép buộc ông H phải trả nợ. H đã nhờ Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H để đi cùng với Đ đến gặp ông H tại nhà H. Nguyễn Anh T rủ thêm Hoàng T H (sinh năm 1991; trú tại: số 4, ngách 245/96/10 phố ĐC, HM, H); Nguyễn Đình Đ gọi thêm Khuất Anh T (sinh năm 1978; trú tại: số 4, ngõ 62, A, P, B, H) và Đỗ Gia PH (sinh năm 1990; trú tại: ĐT, Hạ H, pt) để cùng đến nhà Đào Văn H gặp ông H. Đến khoảng 16h45’ ngày 22/4/2020, theo như thỏa thuận từ trước, H trở về nhà để đợi ông H còn Đ, T, H và các đối tượng trên sẽ đứng đợi ở khu vực bờ sông gần nhà H. Khoảng 15 phút sau, Đ được H báo tin vừa trả tiền nhà cho ông H nên đã cùng cả nhóm đi vào nhà H để gặp ông H. Khi vừa gặp ông H thì Đ hỏi “ ông nhớ ông vay tiền tôi không?” thì ông H trả lời: “tao không biết mày là ai cả”. Thấy vậy, Đ dùng tay tát vào má trái ông H 01 cái, H dùng chân đá vào bụng ông H, T dùng sợi dây xích khóa cửa có sẵn trước cửa nhà H vụt 02 cái vào chân ông H, P và T H cũng xông vào dùng tay chân đấm đá nhiều cái vào đầu và mặt ông H.
Lúc này, Đào Văn H từ tầng 2 đi xuống quát to: “Chúng mày làm loạn trong nhà tao à? cút ra khỏi nhà tao.” Thấy Đào Vãn H nói vậy, cả nhóm thôi không đánh ông H nữa. Lúc này T, P và T H đi ra quán nước cách đó khoảng 1m uống nước. Trong nhà còn lại Đào Văn H, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Đức H và Nguyễn Anh T cùng với ông H. Lúc này, Đ đã giơ ảnh chụp giấy vay nợ sổ tiền 110.000.000 đồng mà chị Nguyễn Thị Thu P đã vay của Đ và có chữ kí xác nhận của ông H, thấy vậy ông H chủ động xin cả nhóm cùng đi lên tầng 3 để nói chuyện. Tại đây, ông H đã thừa nhận việc có vay của Đ số tiền trên nhưng hiện nay chưa có khả năng thanh toán thì Đào Vãn H nói: “Tôi vừa trả ông 37.000.000 đồng tiền thuê nhà còn gì”. Lập tức, Đ, H, T liên tục có những lời nói đe dọa và yêu cầu ông H trả nợ. Đ nói: “may mà gặp tại đây chứ mà gặp ngoài đường là tao đánh mày một trận rồi đấy”. Ông H đề nghị trả trước sổ tiền 10.000.000 đồng nhưng Đ không đồng ý. Dưới sức ép của Đ và đồng bọn, ông H buộc phải đưa cho cho Đ số tiền 20.000.000 đồng, số tiền này ứng ra từ số tiền Đào Vãn H trả tiền thuê nhà cho ông H trước đó. Sau đó Đ và ông H thỏa thuận số tiền chốt nợ là 150.000.000 đồng (trong đó bao gồm 110.000.000 dồng tiền gốc và 40.000.000 đồng tiền lãi trong 4 năm). Do ông H đã trả 20.000.000 đồng nên số tiền còn lại ông H phải trả cho Đ là 130.000.000 đồng. Ông H đồng ý nhận nợ và viết giấy xác nhận nội dung có vay của Đ số tiền 130.000.000 đồng. Lúc này Đào Vãn H đề nghị sẽ thanh toán cho Đ thay cho ông H vì lý do Đ ở xa. Ông H và Đ cùng đồng ý nên Đ đã xé bỏ tờ giấy xác nhận ông H vừa viết trước đó và ông H đã viết một giấy xác nhận khác với nội dung vay Đào Văn H số tiền 130.000.000 đồng và ông H cũng chủ động thỏa thuận với H sẽ trả dần số tiền này cho H trong 06 tháng còn H sẽ không tính lãi cho ông H nữa thì H đồng ý. Sau đó trước mặt tất cả mọi người Đào Văn H đã bảo người yêu mình là chị Trịnh Thị Thùy Dương đưa cho mình số tiền 100.000.000 đồng để trả cho Đ còn số tiền 30.000.000 đồng sẽ chuyển khoản cho Đ sau. Trịnh Thị Thùy Dương sau đó đã đưa cho Đào Văn H 01 bọc tiền, Đào Văn H cầm bọc tiền này và đưa lại cho Đ. Lúc này sau khi ông H ra về thì Đ đã trả lại cho Đào Văn H bọc tiền H vừa đưa và tất cả sau đó ra về.
Ngày 24/4/2020 ông H đã đến Công an quận HM để trình báo việc bị chiếm đoạt số tiền 20.000.000 đồng. Tại Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể lập hồi 15h15’ ngày 24/4/2020 tại công an phường TL thể hiện ông Kim Đắc H bị các thương tích sau: (1) 01 vết bầm tím tụ máu phía trong vành tai bên phải, (2) 01 vết bầm tím tụ máu vùng quầng mắt phải, (3) 01 bầm tím vùng đầu gối và bắp đùi bên phải kích thước khoảng 10x8cm. Do các thương tích không đáng kể nên ông H đã từ chối giám định thương tích và cam đoan sẽ không khiếu kiện gì.
Ngày 25/4/2020 Đào Văn H đã đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận HM đầu thú về hành vi phạm tội của mình. Căn cứ các tài liệu và chứng cứ thu thập được, ngày 26/4/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận HM đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường họp khẩn cấp đối với Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Đức H và Nguyễn Anh T.
Đối với tờ giấy ông H viết cho Đào Văn H xác nhận việc vay của H số tiền 130.000.000 đồng, H khai khi thấy tổ công tác công an phường TL đến kiểm tra thì H đã xé bỏ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được tờ giấy này.
Quá trình điều tra, Nguyễn Đình Đ đã giao nộp lại số tiền 20.000.000 đồng đã chiếm đoạt của ông Kim Đắc H. Ngày 15/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận HM đã trao trả lại cho ông Kim Đắc H số tiền trên. Ông H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.
Cơ quan điều tra đã thu giữ của Đào Văn H 01 điện thoại di động Nokia 8800 màu vàng, số IMEI: 358645014426456; thu giữ của Nguyễn Đình Đ 01 điện thoại di động Iphone xs max màu trắng, số IMEH: 357309097160430, IMEI2: 357309097886604. H và Đ đã sử dụng 02 chiếc điện thoại này để bàn bạc việc cưỡng đoạt tài sản của ông H. Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 đoạn xích sắt, dài 85 cm, chiều rộng mắt xích 03cm mà Nguyễn Anh T sử dụng để đánh gây thương tích cho ông H.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 của Toà án nhân dân quận HM, thành phố H đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 Xử phạt Nguyễn Đức H 14 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2020 đến ngày 19/5/2020.
Xử phạt Nguyễn Anh T 14 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2020 đến ngày 19/5/2020.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với Nguyễn Đình Đ và Đào Văn H; xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm; quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19 và 22/01/2021 Nguyễn Đức H và Nguyễn Anh T kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyễn Đức H, Nguyễn Anh T, Nguyễn Đình Đ, Đào Văn H có mặt; ông Kim Đắc H vắng mặt.
+ Nguyễn Đức H, Nguyễn Anh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; khai báo về hành vi phạm tội của mình và đồng phạm khác không thành khẩn. Tuy nhiên các bị cáo đều thừa nhận: Ngày 21/4/2020 Đào Văn H nhờ T, H đi đòi 110.000.000 đồng mà ông Kim Đức H vay của Nguyễn Đình Đ; T, H, Đ , Văn H có bàn với nhau không được đánh mà chỉ gây áp lực thế nào để chuyển số nợ 110.000.000 đồng ông H vay nợ Đ sang vay nợ H; khi đi T rủ thêm Hoàng T H; Đ rủ thêm Khuất Anh T và Đỗ Gia P. Khi Đ, T, H, T, P, T H vào gặp ông H tại nhà Văn H (thuê của ông H) thì Đ đã to Tg và đánh ông H, thấy vậy cả nhóm T, H, T, P, T H cũng đánh ông H, trong đó H dùng chân đá vào bụng, T dùng xích sắt ở cửa ra vào đánh vào người ông H; một lúc sau Văn H cầm kiếm đi xuống trả vờ quát cả nhóm thì không ai đánh ông H nữa. Khi ông H đề nghị lên tầng 3 nói chuyện về vay nợ thì tại tầng 3 có T, H, Đ, Văn H đe dọa để ông H trả nợ Đ 110.000.000 đồng và H định hướng ông H trả lãi trong 4 năm số tiền 40.000.000 đồng. Đ yêu cầu ông H trả trước 30.000.000 đồng, ông H xin Đ trả trước 20.000.000 đồng, số tiền còn lại 130.000.000 đồng Đ và T hướng dẫn ông H viết giấy vay nợ lại. Sau khi ông H viết xong, tất cả tìm cách để ông H đồng ý chuyển số nợ sang cho H, T tiếp tục dọa đánh ông H thì H mới đặt vấn đề chuyển số nợ từ Đ sang cho H, do vậy Đ đã xé tờ giấy nợ ông H viết và ông H viết giấy vay 130.000.000 đồng với H, H lấy một cọc tiền đưa cho Đ, coi như H đã trả Đ thay cho ông H, ông H thấy vậy ra về thì Đ trả lại cho H số tiền lúc trước H đưa, việc ông H phải trả 20.000.000 đồng sau đó viết giấy nợ 130.000.000 đồng có thể do ông H sợ bị đánh.
Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H sau khi nghe quan điểm của Viện kiểm sát đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
+ Nguyễn Đình Đ và Nguyễn Văn H đều thừa nhận Đ nhờ H đòi nợ ông H số tiền 110.000.000 đồng và bàn bạc khi ông H đến thu tiền nhà của H thì Đ sẽ đi cùng một số người nữa vào gây sức ép buộc ông H trả tiền và chuyển khoản nợ sang cho H dễ đòi tiền ông H. H có nhờ T, H đòi nợ ông H hộ Đ và có nói kế hoạch đòi nợ với T, H; T rủ thêm Hoàng T H; Đ rủ thêm Khuất Anh T, Đỗ Gia P. Ngày 21/4/2020 khi gặp ông H tại nhà Văn H thì Đ, T, H, T H, P đều đánh ông H, T cầm xích sắt ở cửa ra vào vụt vào người ông H, còn Văn H thì giả vờ cầm kiếm đi từ trên tầng xuống can. Do ông H vừa sợ, vừa xấu hổ nên đã đề nghị được lên tầng 3 nói chuyện việc nợ, Trên tầng 3 chỉ có Đ, H, T, H đã đe dọa để ông H thừa nhận khoản vay Đ 110.000.000 đồng và tính thêm lãi là 40.000.000 đồng trong 4 năm vợ chồng ông H chưa trả nợ và ông H đồng ý trả 20.000.000 đồng trước, sau đó viết giấy vay nợ Đ số tiền còn thiếu là 130.000.000 đồng, sau đó H giả vờ nói với ông H trả thay số nợ này cho Đ, còn ông H viết giấy nợ với H, ông H đồng ý nên Đ xé giấy ông H viết nợ và chuyển sang viết giấy vay nợ H 130.000.000 đồng, ngay sau đó H đã lấy cọc tiền đưa cho Đ, sau khi ông H về Đ đã trả lại cọc tiền này cho H, đúng như kế hoạch ban đầu H, Đ đã bàn với nhau. Khi Cơ quan công an đến do lo sợ nên H đã xé tờ giấy ông Đ viết vay nợ H 130.000.000 đồng vứt đi. Lý do ông H phải trả 20.000.000 đồng và viết giấy nợ 130.000.000 đồng là doong H thấy đúng có vay nợ Đ và sợ khi T, H, Đ đe dọa.
Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Văn H sau khi nghe quan điểm Viện kiểm sát đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
+ Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo của T và H theo trình tự phúc thẩm.
+ Về nội dung: Qua phần thẩm vấn công khai thấy lời khai của các bị cáo phù hợp nhau về việc Đ, H bàn bạc với nhau về việc đòi nợ ông H 110.000.000 đồng; Đ trực tiếp gọi Khuất Anh T, Đỗ Gia P; Văn H gọi T, H; T gọi Hoàng T H; Cả nhóm đều biết sẽ đi vào nhà Văn H gặp ông H đòi nợ cho Đ; khi gặp ông H cả nhóm đã dùng vũ lực, T còn dùng dây xích đánh ông H làm ông H lo sợ. Khi lên tầng 3 T, H, Đ, H tiếp tục đe dọa để ông H phải đồng ý trả khoản tiền vay 110.000.000 đồng và 40.000.000 đồng tiền lãi trong 4 năm. Thực tế, ông H đã trả cho Đ 20.000.000 đồng và phải viết giấy vay nợ Đ 130.000.000 đồng; sau đó các bị cáo tiếp tục đe dọa để ông H viết giấy vay nợ sang H theo đúng như kế hoạch ban đầu của Đ, H; như vậy, với mục đích dùng vũ lực uy hiếp tinh thần, Đ, T, H, T, P, T H đánh, làm ông H sợ phải trả 20.000.000 đồng và viết giấy nhận nợ 130.000.000 đồng có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản” quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự với số tiền chiếm đoạt là 150.000.000 đồng và T, P, T H có dấu hiệu đồng phạm với Đ, Văn H, T, H nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Về hình thức:
Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H nộp trong thời hạn Luật định nên được giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Cấp sơ thẩm nhận định: Khoảng 17h00’ ngày 22/4/2020 tại tầng 3 nhà 2B ngõ 143 NC, phường TL, quận HM, thành phố H các bị cáo Đào Văn H, Nguyễn Đình Đ, Nguyễn Anh T và Nguyễn Đức H đã thực hiện hành vi dùng số đông người để chửi bới, dọa nạt, đe dọa dùng vũ lực để uy hiếp tinh thần ông Kim Đắc H, buộc ông Kim Đắc H phải đưa cho các bị cáo 20.000.000 đồng, các bị cáo là người đầy đủ năng lực hành vi nên đã xét xử các bị cáo tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 bộ luật hình sự.
Nhận thấy:
Theo biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, đơn trình báo, bản tường trình, biên bản ghi lời khai của bị hại ông Kim Đắc H từ bút lục 131 đến 155 đều trình bầy và khai: sau khi H trả 37.000.000 đồng tiền thuê nhà số 2B ngõ 143 NC thì ông H đi xuống tầng 1 lấy xe về thì bất ngờ bị 5 thanh niên lao vào đánh liên tiếp vào người và Nguyễn Đình Đ cầm điện thoại cho ông H xem ảnh chụp một tờ giấy vay nợ số tiền 110.000.000 đồng của chị P vợ ông H, có chữ ký của ông H, sau đó bắt lên tầng 3 nói chuyện, tại đây ông H bị đe dọa và yêu cầu viết giấy vay nợ mới, Đ nói tính cả tiền gốc lãi mấy năm nay thì vợ chồng ông H nợ 150.000.000 đồng và ép viết giấy nợ Đ 150.000.000 đồng. Do bị uy hiếp tinh thần và sợ bị đánh lên ông H đã đưa cho Đ 20.000.000 đồng và viết giấy nợ Đ 130.000.000 đồng, sau đó phải viết giấy vay nợ Văn H 130.000.000 đồng để H lấy tiền trả cho Đ.
Lời khai của Nguyễn Đình Đ tại Cơ quan điều tra tại bút lục 199: “.....sau khi tôi cùng anh H, T, H và ông H lên tầng 3 số nhà 2B ngõ 143 NC, TL, HM, H, tại đây tôi đã bắt ông H viết giấy nợ số tiền 130.000.000 đồng....”; bút lục 207: “....quá trình ở tầng 3 thì T có nói với ông H với giọng đe dọa “Đ.M mày , nợ thì phải trả, đừng lằng nhằng”, còn H cũng nói với giọng đe dọa “nợ thì phải trả cho xong đi, đừng lằng nhằng đéo gì”, ngoài ra T, H không đánh. Nghe thấy vậy thì ông H sợ chỉ xin tôi để viết giấy vay nợ tiền Văn H để trả cho tôi”.
Lời khai của Đào Văn H tại bút lục 268,269: “....tôi có nói chuyện với Đ là sẽ giúp và hẹn sẽ thông báo cho Đ biết ngày giờ anh H đến thu tiền nhà để Đ đến gặp đòi nợ và ép anh H trả nợ cho Đ bằng cách chuyển nợ và trừ dần vào tiền tôi đang thuê nhà....”; bút lục 282: ‘...Đ yêu cầu ông H phải trả số tiền đã vay là 110.000.000 đồng cộng với tiền lãi trong 4 năm là 40.000.000 đồng, tổng cộng ông H phải trả cho Đ là 150.000.000 đồng. Đ yêu cầu ông H viết giấy nhận nợ số tiền trên, ông H xin Đ không tính lãi nhưng Đ, T, H không nghe mà liên tục chửi bới ông H, sau đó ông H phải viết giấy cho Đ ....ông H trả trước cho Đ 20.000.000 đồng....tôi đề nghị sẽ cho ông H vay để trả nợ cho Đ trước, ông H sẽ viết giấy nhận nợ cho tôi để tôi trừ dần vào số tiền thuê nhà hàng tháng....ông H đồng ý, tôi đọc cho ông H viết giấy nhận nợ tôi 130.000.000 đồng, tôi lấy trong tủ đưa cho Đ mọt cọc tiền.....(toàn bộ số tiền tôi đưa Đ, sau đó Đ đã đưa lại cho tôi, việc đưa tiền chỉ để đánh lừa ông H)...” Tại các bản kiểm điểm và lời khai của Nguyễn Anh T từ bút lục 344 đến 385 đều khai với nội dung: Ngày 22/4/2020, H nhờ T và H đi cùng Đ đến nhà H đang thuê của ông H, nói chuyện với ông H để đòi tiền hộ Đ. H có nói làm thế nào chuyển số nợ từ Đ sang cho H và dặn không được đánh ông H. Sau đó đến khoảng 17h cùng ngày, Đ, T, H, T H, P, T vào nhà Văn H gặp ông H thì Đ Tm cổ áo ông H, tất cả xông vào đánh ông H đến khi Văn H từ trên gác đi xuống cầm kiếm quát, giả vờ can ngăn. Đ mượn H phòng để T, H, Đ, Văn H đưa ông H lên tầng 3 nói chuyện. Trên tầng 3 có T, Đ, H dùng những lời nói đe dọa ông H, còn anh Văn H là người định hướng phải tính lãi bằng lãi xuất ngân hàng là 40 triệu và ép ông H phải trả tổng số nợ là 150.000.000 đồng, H và T dùng những lời lẽ phụ họa để ép ông H trả nợ trước 20.000.000 đồng, sau viết giấy vay 130.000.000 đồng với Đ, sau lại viết với H(bút lục 346, 357, 365, 366).
Tại các bản kiểm điểm và lời khai của Nguyễn Đức H từ bút lục 405 đến 429 đều khai với nội dung: Ngày 22/4/20202Văn H nhờ T, H đòi nợ ông H hộ Đ. H bàn kế hoạch với Đ, T, H là sẽ về nhà tại 2B ngõ 143 NC để chờ ông H đến, sau khi H trả tiền thuê nhà thì sẽ báo để mọi người vào đòi nợ và dặn không ai được đánh H và phải làm thế nào để H viết giấy nợ tiền H để trả cho Đ. Sau khi bàn bạc xong thì H, T, Đ, T H là em của T, T, P là bạn của Đ đến nhà Văn H. Sau khi Đ nhận được tin nhắn của H thì tất cả đi vào trong nhà H gặp ông H. Khi gặp ông H, Đ hỏi có nhớ tôi không, ông H nói không biết chúng mày là ai cả nên tất cả xông vào đánh ông H, T dùng dây xích cửa nhà đánh vào chân, lúc đó văn H đi ra quát to lên không ai đánh ông H nữa. Khi Đ giơ điện thoại cho ông H xem giấy nợ thì ông H thừa nhận có vay tiền của Đ và muốn lên tầng 3 nói chuyện. Tại tầng 3, có Đ, T, H chửi bới đe dọa ông H nhiều lần. Đ yêu cầu ông H trả số tiền 110.000.000 đòng và 40.000.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 150.000.000 đồng. Đ yêu cầu ông H trả trước 20.000.000 đồng và viết giấy nợ 130.000.000 đồng. Sau đó, H nói cho ông Đ vay 130.000.000 đồng trả cho Đ, ông H phải đồng ý vay tiền H. H đưa giấy bút cho ông H viết giấy vay 130.000.000 đồng, sau đó H lấy tiền đưa cho Đ, sau khi ông H về thì Đ trả lại số tiền H đã đưa.
Lời khai của Nguyễn Đình Đ, Đào Văn H, Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H tại phiên tòa phúc thẩm cơ bản phù hợp lời khai của các bị cáo, bị hại ông Kim Đắc H và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thấy:
Vợ chồng ông Kim Đắc H có vay nợ của Nguyễn Đình Đ số tiền 110.000.000 đồng từ tháng 8/2015; Nguyễn Đình Đ biết ông H cho Đào Văn H thuê nhà tại số 2B ngõ 143 NC, TL, HM, H nên đã nhờ Văn H đòi số tiền 110.000.000 đồng mà vợ chồng ông H chưa trả, H đồng ý và thống nhất khi nào đến kỳ thanh toán tiền nhà thì H thông báo cho Đ biết đến gặp và đòi tiền ông H;
H giả bộ đứng ra trả nợ thay và ông H sẽ trả nợ cho H bằng cách trừ nợ dần tiền nhà H đang thuê của ông H.
Ngày 21/4/2020, Văn H gọi điện thông báo cho Đ biết ông H đến thu tiền nhà số 2B ngõ 143 NC, TL, HM, H. Ngày 22/4/2020, Văn H nhờ Nguyễn Anh T, Nguyễn Đức H đến dòi nợ cùng Đ, khi đi T gọi Hoàng T H đi cùng; Đ gọi thêm Khuất Anh T, Đỗ Gia P. Khi gặp nhau Văn H đã thông báo cho T, H biết kế hoạch đòi nợ hộ Đ và làm thế nào để chuyển số nợ của ông H từ Đ sang Văn H;
Văn H về nhà trước trả tiền thuê nhà cho ông H, sau đó tất cả sẽ vào đòi nợ ông H. Sau khi thống nhất kế hoạch, Văn H về nhà trả 37.000.000 đồng tiền thuê nhà cho ông H và nhắn tin cho Đ thì Đ cùng T, H, T, P, T H vào gặp ông H tại tầng 1, khi ông H nói với Đ không nhận ra Đ thì Đ dùng tay tát vào má trái, H dùng chân đá vào bụng, T dùng xích sắt vụt vào chân, P, T, T H cũng xông vào dùng tay, chân đám, đá nhiều cái vào đầu, mặt ông H. Sau đó Đ, Văn H, T, H đưa ông H lên tầng 3 nói chuyện việc vay nợ. Tại tầng 3, Đ, T, H dùng lời lẽ chửi bới, đe dọa buộc ông H nhận tổng số tiền nợ là 150.000.000 đồng (gồm 110.000.000 đồng tiền gốc, 40.000.000 tiền lãi) và phải trả ngay cho Đ 20.000.000 đồng và viết giấy nợ Đ 130.000.000 đồng. Sau khi viêt xong giấy nợ cho Đ, Văn H vờ trả nợ hộ nên ông H đã viết giấy vay 130.000.000 đồng cho Văn H.
Với mục đích buộc ông H trả nợ 110.000.000 đồng và hành vi dùng vũ lực, đe dọa của Đ, T, H, T H, T, P đối với ông H để ông H buộc phải đưa 20.000.000 đồng và viết giất vay nợ 130.000.000 đồng cho Đ, sau lại viết giấy nợ 130.000.000 đồng với Văn H có dấu hiệu của tội “Cướp tài sản” theo quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự.
Quá trình chuẩn bị xét xử, ngày 04/12/2020 cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung về dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và hành vi cướp tài sản, Viện kiểm sát nhân dân quận HM giữ nguyên cáo trạng truy tố các bị cáo tội “Cưỡng đoạt tài sản” và chưa đấu tranh, đánh giá ý thức chủ quan của các bị cáo, bị hại thay đổi lời khai tại Cơ quan điều tra; đánh giá toàn bộ hành vi, mục đích chiếm đoạt của các bị cáo để xác định chính xác tội danh; đánh giá số tiền ông H bị chiếm đoạt là 20.000.000 đồng, 110.000.000 đồng hay 150.000.000 đồng; đánh giá hành vi đánh ông H của Hoàng T H, Khuất Anh T, Đỗ Gia P có uy hiếp tinh thần, làm ông H sợ hay không. Những vấn đề này không làm sáng tỏ được ở cấp phúc thẩm nên chấp nhận quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, đánh giá lại về tội danh; số tiền các bị cáo đã chiếm đoạt của ông H và xem xét vai trò đồng phạm của Hoàng T H, Khuất Anh T, Đỗ Gia P.
Từ nhận định trên, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận HM. Giao hồ sơ về Viện kiểm sát nhân dân quận HM, thành phố H để điều tra lại theo thẩm quyền.
[3] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 của Toà án nhân dân quận HM, thành phố H để điều tra lại.
2. Chuyển hồ sơ vụ án về Viện kiểm sát nhân dân quận HM, thành phố H để giải quyết theo thẩm quyền.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 810/2021/HSPT
Số hiệu: | 810/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về