TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HOÀ
BẢN ÁN 20/2022/HS-PT NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 129/2021/TLPT-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Thành T1 và Trần Văn G do có kháng cáo của các bị cáo, kháng cáo của bị hại ông Ngô Minh T2 và bà Nguyễn Thị H1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Thành T1, sinh ngày 27/7/1995 tại huyện V, Khánh Hòa; nơi cư trú: xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Làm biển; con ông Nguyễn Thanh H2 (SN 1963) và bà Nguyễn Thị L (SN 1967); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Trần Văn G, sinh ngày 27/6/1997 tại huyện V, Khánh Hòa; nơi cư trú: xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm biển; con ông Trần Văn B (SN 1972) và bà Đinh Thị H3 (SN 1961); vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại có kháng cáo: Ông Ngô Minh T2 (SN 1948) và bà Nguyễn Thị H1 (SN 1955); đều cư trú tại: xã Đ, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Bà Nguyễn Thị H1 ủy quyền cho ông Ngô Minh T2 tham gia tố tụng. Ông T2 có mặt tại phiên tòa.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại ông Ngô Minh T2 và bà Nguyễn Thị H1: Ông Ngô Minh T3, Luật sư Văn phòng L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên. Có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng: Ông Trần Văn Q, sinh năm 1995; nơi cư trú: xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. váng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ ngày 29/4/2020, Nguyễn Thành T1, Trần Văn G, Trần Sĩ Đ, Trần Văn Q cùng một số người khác tổ chức uống bia tại nhà Q tại xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Nguyễn Thành T1 có biểu hiện say nên khóc, đập ly bia bằng thủy tinh và điện thoại của T1, sau đó tự lấy xe mô tô Exciter, màu đỏ, biển kiểm soát 79V1-403.11 chạy đi. Thấy vậy, Q sử dụng xe mô tô Sirius của G, chở G đuổi theo T1. KHI đang lưu thông trên đường Tỉnh lộ ĐT651 hướng Cổ Mã - Đầm Môn, cách Ủy ban nhân dân xã V khoảng 300 mét thuộc thôn Đ, xã V, huyện V thì Q và G phát hiện phía trước, bên trái của hướng đi có xe mô tô của T1 đang dựng trên đường, chặn trước đầu xe ô tô loại 07 chỗ ngồi, hiệu Inova, biển kiểm soát 52P-0655 do ông Ngô Minh T2 điều khiển chở ông Hoàng Xuân H4 (phóng viên hợp đồng của Báo V) đi hướng ngược chiều, còn T1 thì dùng tay đập vào kính chắn gió cửa trước bên trái, yêu cầu ông T2 xuống xe. Lúc này, Trần Văn G và Trần Văn Q đi đến, do thấy T1 đang đứng bên ngoài cửa lái xe la lối, nghĩ xe ô tô này va chạm với xe mô tô của T1 nên G cũng đi bộ đến đập tay vào cửa kính xe ô tô yêu cầu ông T2 xuống xe nhưng ông T2 không xuống. G hỏi T1 “Đập xe nghen”, T1 gật đầu “Đập”. G nhặt 01 viên gạch nung (loại 04 lỗ) đã bị vỡ 01 phần trên lề đường ném vào kính chắn gió cửa trước bên trái xe ô tô 52P-0655 nhưng kính không vỡ mà vỡ dìm chắn nước bên trên, sau đó Q ôm G lại can ngăn, đồng thời can ngăn T1. Ông T2 điều khiển xe lùi lại, rồi điều khiển đi về hướng Quốc lộ 1A. Thấy xe ô tô 52P-0655 chạy đi, T1 điều khiển xe mô tô Exciter đuổi theo nên Q điều khiển xe Sirius chở G đuổi theo T1 để can ngăn.
KHI xe 52P-0655 do ông Ngô Minh T2 điều khiển đi được khoảng hơn 100 mét đến đoạn đường gần ngã ba rẽ xuống làng S thì T1 đuổi kịp và chặn lại, lúc này Q và G cũng chạy đến. T1 tiếp tục đi đến cửa phía trước bên trái xe ô tô 52P-0655 và dùng tay đập vào kính chắn gió, yêu cầu ông T2 xuống xe thì Q đến can ngăn T1, còn G nhặt 01 viên đá bên lề đường ném vào kính chắn gió phía trước bên phải làm kính bị rạn nứt. Thấy vậy, Q đến can ngăn G và bảo G cùng đến can ngăn T1 lại. Lúc này, T1 nhặt nhiều viên gạch, đá bên lề đường ném vào kính chắn gió bên trái phía sau xe ô tô 52P-0655 làm kính bị thủng 01 lô. Tiếp đến, T1 và G đi đến cửa phía trước bên trái nơi ông Ngô Minh T2 đang ngồi, cả hai dùng tay đập vào cửa kính để yêu cầu ông T2 xuống xe, còn Q đứng phía sau ôm giữ T1 lại. Lúc này, ông T2 hạ cửa kính chắn gió xuống một khoảng nhỏ và lấy từ trong hộc đựng đồ ra 01 chai nhựa màu trắng, bên trong chứa dung dịch lỏng (ông T2 khai là chất “Ni” dùng tẩy rửa vàng), xịt trúng vào vùng mặt của T1 và vào vai trái của G. Do bị trúng hóa chất nên T1 và G bị bỏng rát và tránh xa xe ô tô 52P-0655. Ông T2 điều khiển xe ô tô chạy đi về hướng Quốc lộ 1A. Sau đó, ông Ngô Minh T2 đến Công an xã Vạn Thạnh để trình báo sự việc.
Bản kết luận định giá tài sản số 48/2020/KL-TTHS ngày 08/6/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Vạn Ninh, kết luận: Tài sản bị hư hỏng là 01 kính chắn gió phía trước, 01 kính chắn gió ở sau bên trái xe và 01 tấm dìm chắn nước trên cánh cửa trước bên trái của xe ô tô hiệu Inova loại 07 chỗ, biển số 52P-0655. Tổng giá trị tài sản là 3.840.000 đồng (Ba triệu tám trăm bốn mươi ngàn đồng).
Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2021/HSST ngày 05/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, đã quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thành T1 09 (Chín) tháng tù, Trần Văn G 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 10/5/2021, bị cáo Nguyễn Thành T1 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 12/5/2021, bị cáo Trần Văn G có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 17/5/2021, bị hại ông Ngô Minh T2 và bà Nguyễn Thị H1 có đơn kháng cáo với nội dung: Mức án mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với các bị cáo là quá nhẹ, bỏ lọt tội phạm đối với Trần Văn Q.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi mà các bị cáo đã thực hiện như nội dung án sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo.
- Bị hại ông Ngô Minh T2 giữ nguyên nội dung kháng cáo.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với các bị cáo và xử phạt Nguyễn Thành T1 09 (Chín) tháng tù, Trần Văn G 06 (Sáu) tháng tù là phù hợp.
Tại phiên tòa phúc thẩm, không còn tình tiết nào khác để xem xét, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G và kháng cáo của bị hại ông Ngô Minh T2, bà Nguyễn Thị H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Vị Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại cho rằng: cấp sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T1 09 (Chín) tháng tù, bị cáo Trần Văn G 06 (Sáu) tháng tù là quá nhẹ. Thực tế ông Ngô Minh T2 đã chi phí sửa chữa xe hết 21.150.000 đồng, nhưng cấp sơ thẩm xác định giá trị tài sản bị thiệt hại theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá là 3.840.000 đồng là không đúng vì việc định giá của Hội đồng định giá không đúng quy định của pháp luật, cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo theo điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là không chính xác và không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng” theo điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo là thiếu sót. Hội đồng xét xử sơ thẩm không dẫn giải ông Trần Văn Q đến phiên tòa để làm rõ những mâu thuẫn trong vụ án, trong khi ông Ngô Minh T2 vẫn khẳng định 03 người tham gia đập phá xe ô tô của Ông. Lời khai của ông Q (BL 242) thể hiện, ông Q là người điều khiển xe mô tô chở bị cáo Trần Văn G đuổi theo xe ô tô của ông T2, dựng xe mô tô trước đầu xe ô tô không cho ông T2 chạy xe. Hai xe mô tô hiệu Exciter và Sirius mà các bị cáo sử dụng để rượt theo đập phá xe ô tô của ông Ngô Minh T2 là phương tiện phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vạn Ninh không thu giữ để xử lý là không đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Minh T2, bà Nguyễn Thị H1. Hủy bản án sơ thẩm để điều tra làm rõ hành vi của ông Trần Văn Q để xử lý theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về thủ tục tố tụng Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn Q là người có liên quan đến kháng cáo của bị hại vắng mặt. Sự vắng mặt của ông Trần Văn Q không gây cản trở cho việc xét xử. Căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung vụ án [2.1] Lời khai nhận của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 29/4/2020, tại đường tỉnh lộ ĐT 651 thuộc thôn Đ, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa, các bị cáo Nguyễn Thành T1 và Trần Văn G đã có hành vi dùng gạch, đá ném vào xe ô tô biển kiểm soát 52P- 0655 của ông Ngô Văn T2 làm hư hỏng 01 kính chắn gió phía trước, 01 kính chắn gió ở sau bên trái xe và 01 dìm chán nước trên cánh cửa trước bên trái, giá trị tài sản bị thiệt hại là 3.840.000 đồng (Ba triệu tám trăm bốn mươi ngàn đồng). Do đó, cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2.2] Cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; tự nguyện bồi thường thiệt hại, xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành T1 09 (Chín) tháng tù; bị cáo Trần Văn G 06 (Sáu) tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ cũng như hậu quả của hành vi phạm tội và nhân thân của từng bị cáo.
[2.3] Trong giai đoạn điều tra, bị hại ông Ngô Minh T2 khai “... 02 đối tượng là trực tiếp dùng gạch đá đập xe tôi. Trong đó, 01 đối tượng đập kính chăn giá trước, 01 đối tượng đập kính chắn gió cửa sau bên trái” (BL171, 177); ông Hoàng Xuân H4 là người ngồi trên ghế trước bên phải xe ô tô khai “...02 thanh niên dùng đá đập vào kính xe trên gồm có 01 thanh niên không mặc áo và 01 thanh niên mặc áo màu trắng, đầu đội mũ màu trắng, còn thanh niên còn lại thì can ngăn không cho thanh niên trên đập” (BL 212, 213); Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T2 và ông H4 đều xác định: Chỉ có hai bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G là người đập xe ô tô của ông T2. Lời khai nêu trên của ông Hoàng Xuân H4 và ông Ngô Minh T2 phù hợp với lời khai của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G và Trần Văn Q (BL 242): “Trần Văn Q điều khiển xe mô tô chở bị cáo Trần Văn G để ngăn cản không cho các bị cáo đập phá xe ô tô của ông Ngô Minh T2”, nên không có căn cứ để xác định Trần Văn Q tham gia tội phạm với vai trò đồng phạm.
[2.4] Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G thể hiện tính côn đồ. Tại phiên tòa phúc thẩm, không còn tình tiết nào khác để Hội đồng xét xử xem xét, nên không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G và của bị hại ông Ngô Minh T2, bà Nguyễn Thị H1.
[2.5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thành T1, Trần Văn G và kháng cáo của bị hại ông Ngô Minh T2, bà Nguyễn Thị H1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Áp dụng khoản 1 Điều 178; điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Thành T1, Trần Văn G, Xử phạt:
- Nguyễn Thành T1 09 (Chín) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
- Trần Văn G 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thành T1 và Trần Văn G mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bị hại ông Ngô Minh T2, bà Nguyễn Thị H1 không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 20/2022/HS-PT
Số hiệu: | 20/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về