Bản án về tội cố ý gây thương tích số 72/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 72/2021/HS-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/HSST-QĐ ngày 18-11-2021 đối với bị cáo:

Nguyn Ngọc D, tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn V, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Nguyễn Thị Hồng T; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 10-5-2021, Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau tại khu vực ngã 4 Ký Con, Lý Thường Kiệt, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng điều tra về tin báo, tố giác tội phạm về hành vi gây rối trật tự công cộng vào ngày 10-7-2021. Bị bắt, tạm giam ngày 12 tháng 7 năm 2021. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn Tú N và bà Trương Thị H, đều là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng. Đều có mặt.

- Bị hại: Cháu Nguyễn Trung Tuấn K; địa chỉ: Tòa S, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: bà Nguyễn Thị M; địa chỉ: Tòa B, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh và ông Đỗ Hữu H; nơi cư trú: Số T, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng. Đều vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Đức C, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV H; địa chỉ: Số A, phường C, quận H, thành phố Hải Phòng, (Theo quyết định số 126/QĐ-TTTGPL ngày 10-6-2021 của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng). Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Cháu Đào Nguyễn Việt C; địa chỉ: Số N, thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Đào Nguyễn Việt C: Ông Đào Nhật Ú và bà Nguyễn Thị T; đều địa chỉ: Số N, thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, (là bố, mẹ đẻ của cháu Đào Nguyễn Việt C). Đều vắng mặt.

Cháu Trần Hoàng K, sinh ngày 13-8-2006; địa chỉ: Số T, quận H, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Trần Hoàng K: Ông Trần Mạnh K, địa chỉ: Số T, quận H, thành phố Hải Phòng; (là bố đẻ của cháu Trần Hoàng K). Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cháu Đào Nguyễn Việt C, cháu Trần Hoàng K: Ông Nguyễn Văn Tú N và bà Trương Thị H, đều là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hải Phòng. Đều có mặt.

Người được Tòa án triệu tập: Bà Nguyễn Thị Hồng T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 27-5-2021, Trần Hoàng K rủ Đào Nguyễn Việt C, đi tìm Nguyễn Trung Tuấn K để đánh nhau với lý do K bình luận, thách thức từ việc bình luận xấu với C trên mạng xã hội. Sau khi C đồng ý, K gọi điện thoại rủ thêm Nguyễn Ngọc D tham gia đánh K. D đang đi chơi, điều khiển mô tô chở bạn gái về, rồi điều khiển xe mô tô Honda Airblade màu xám trắng, đón chở K ngồi giữa, C ngồi phía sau đi sang nhà Đào Ngọc Q ở thôn V, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng để lấy hung khí đi đánh K. Không thấy có ai ở nhà Q, D tự đi vào trong nhà Q lấy 01 con dao mèo và 01 kiếm ở khu vực bếp nhà Q, rồi đưa dao cho K, còn kiếm đưa cho C. Sau đó, D tiếp tục điều khiển xe mô tô, chở K ngồi giữa, C ngồi sau cùng cầm theo hung khí đi tìm K. Khi đi từ đường Hồng Bàng ngược chiều rẽ ra chân Cầu vượt nút giao Nam cầu Bính, phường Thượng Lý, quận Hồng Bàng, K phát hiện nhóm K đang đứng ở gần thành cầu. C chỉ hướng K đang ngồi phía sau 01 xe mô tô đang dừng. D điều khiển xe chặn trước mũi xe của K, C sử dụng kiếm chém với một phát vào phần thái dương bên phải làm K bị thương tích phải bỏ chạy. K xuống xe, đuổi theo, dùng dao chém 01 phát vào cẳng chân trái của K khiến K bị thương phải đi cấp cứu điều trị tại bệnh viện. Sau khi gây án xong nhóm của K lên xe bỏ đi.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 233/2021/TgT ngày 03-6-2021 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận về thương tích của K như sau: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do vết thương thái dương phải gây nên là 01%; Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do vết thương mặt trước cẳng chân trái gây nên là 02%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích trên gây nên theo phương pháp cộng là 04%. Vết thương rách da vùng thái dương phải, cẳng chân trái có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên. Tại bản Kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 253/2021/TgT ngày 14-6-2021 Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận bổ sung về thương tích của Knhư sau: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tổn thương mẻ xương chày gây nên là 02%, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tổn thương nhánh thần kinh hông khoeo ngoài gây nên là 08%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích trên gây nên theo phương pháp cộng tại Thông tư là 13%.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại cùng gia đình được bồi thường 40.000.000 đồng từ gia đình của Nguyễn Ngọc D, cháu Đào Nguyễn Việt C, cháu Trần Hoàng K và không có yêu cầu gì thêm, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ được hung khí các đối tượng sử dụng để chém cháu Nguyễn Trung Tuấn K gồm: 01 kiếm dài khoảng 80cm, ngang dài 04cm bằng kim loại sáng màu có vỏ bằng kim loại và 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 55cm, ngang dài 05cm, cán và vỏ bằng gỗ.

Tại Cáo trạng số 72/CT-VKSHB ngày 08-10-2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng truy tố Nguyễn Ngọc D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai, thừa nhận việc truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội danh, các tình tiết trong vụ án. Người bào chữa cho bị cáo đồng ý quan điểm truy tố, luận tội của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, tình tiết định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, dân sự, xử lý vật chứng, án phí, các tình tiết trong vụ án. Đồng thời, phân tích điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo vào thời điểm phạm tội. Người bào chữa và bị cáo đều đề nghị xem xét vai trò, hoàn cảnh, điều kiện phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do được hưởng các tình tiết gồm: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bồi thường thiệt hại, bị hại cùng người đại diện hợp pháp của bị hại đều xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có ông ngoại được tặng thưởng nhiều huân, huy chương kháng chiến, phạm tội vào thời điểm dưới 18 tuổi, vai trò đồng phạm thứ yếu, giúp sức, không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Đức C, Luật sư trình bày: Nhất trí phân tích các tình tiết, căn cứ áp dụng pháp luật và đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện Kiểm sát đối với bị cáo từ 18 tháng tù - 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án cháu Đào Nguyễn Việt C, cháu Trần Hoàng K và cháu Đào Nguyễn Việt C, ông Trần Mạnh K đều trình bày: Đều thừa nhận các tình tiết của Cáo trạng, nhất trí phân tích, đánh giá của đại diện Viện Kiểm sát. Cháu Đào Nguyễn Việt C đang chấp hành quyết định của Công an quận Hồng Bàng về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Cháu Trần Hoàng K hiện đang chấp hành quyết định của Công an quận Hồng Bàng về việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với Trần Hoàng K. Về dân sự: Gia đình của cháu Đào Nguyễn Việt C, cháu Trần Hoàng K và cùng Nguyễn Ngọc D đều bồi thường toàn bộ theo yêu cầu của bị hại cùng gia đình bị hại, nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết về dân sự.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo các tình tiết định khung hình phạt gồm: “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”, “dùng hung khí nguy hiểm”, “có tính chất côn đồ” như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1,3,4,6 Điều 91, khoản 1 Điều 101, các điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Về dân sự: Bị hại cùng người đại diện hợp pháp của bị hại đã được bồi thường 40.000.000 đồng, không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết về dân sự. Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ vật chứng là 01 kiếm dài và 01 con dao theo Biên bản giao nhận vật chứng. Vũ Bá H cho cho D mượn xe mô tô, nhưng không biết bị cáo sử dụng xe này vào việc phạm tội, nên cơ quan điều tra không tịch thu là phù hợp quy định pháp luật. Công an quận Hồng Bàng ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đối với Đào Nguyễn Việt C; ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với Trần Hoàng K, đều là những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi do thực hiện hành vi có dấu hiệu của tội Cố ý gây thương tích quy định tại khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tài liệu, chứng cứ cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, người bào chữa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa, bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nêu trên. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về chứng cứ xác định bị cáo có tội: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, người chứng kiến, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, biên bản nhận dạng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, đủ cơ sở xác định: Khoảng 01 giờ ngày 27- 5-2021, tại Cầu vượt nút giao nam cầu Bính, Thượng Lý, Hồng Bàng, Hải Phòng, Nguyễn Ngọc D cùng các cháu Trần Hoàng K, cháu Đào Nguyễn Việt C dùng dao, kiếm chém gây thương tích làm tổn hại 13% sức khỏe của bị hại cháu Nguyễn Trung Tuấn K. Cháu Trần Hoàng K, Đào Nguyễn Việt C khi thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 27-5-2021 đều chưa đủ 16 tuổi, nên chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, cháu K, cháu C, diễn biến khách quan vết thương tích của bị hại và hậu quả của các hành vi gây ra xác định được bị hại bị chém bằng hung khí nguy hiểm nhưng không có mục đích, động cơ tước đoạt tính mạng. Bởi vậy, đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo phạm tội đối với bị hại Nguyễn Trung Tuấn K (sinh ngày 09-6-2006) bằng dao, kiếm, nên đã phạm các tình tiết là “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi”, “dùng hung khí nguy hiểm”. Mặc dù không có mâu thuẫn trực tiếp với bị hại, nhưng bị cáo cùng đồng phạm cố ý phạm tội vô cớ, gây thương tích cho bị hại. Bị cáo thừa nhận hành vi đồng phạm cố ý gây thương tích cho bị hại nhằm xả tức cá nhân là hoàn toàn coi thường pháp luật. Do vậy, đủ căn cứ xác định bị cáo phạm tội với tình tiết “có tính chất côn đồ”. Cần chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm các tình tiết định khung hình phạt nêu trên, phù hợp quy định điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo xâm phạm đến sức khoẻ của người khác, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bởi vậy, cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, bảo đảm công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm tại địa phương, răn đe đối với bị cáo.

[6] Về vai trò đồng phạm: Bị cáo cố ý cùng cháu Trần Hoàng K, cháu Đào Nguyễn Việt C, thực hiện tội phạm “Cố ý gây thương tích”, nên cần áp dụng các điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt. Tuy nhiên, cần đánh giá khách quan vai trò của bị cáo tham gia chuẩn bị hung khí, điều khiển xe mô tô chở đồng phạm, chặn, đuổi, gây thương tích cho bị hại, không trực tiếp gây thương tích cho bị hại, nên Nguyễn Ngọc D đồng phạm với vai trò thứ yếu, giúp sức.

[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không vi phạm các tình tiết theo Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân: Ngày 10-5-2021, Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau tại khu vực ngã 4 Ký Con, Lý Thường Kiệt, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; hiện đang bị Công an quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng điều tra về tin báo, tố giác tội phạm về hành vi gây rối trật tự công cộng vào ngày 10-7-2021. Cần đánh giá quá trình xử sự, thái độ chấp hành pháp luật của bị cáo thông qua nhân thân có liên quan đến hành vi gây thương tích, hành hung người khác. Bị cáo có hành vi tại thời điểm dưới 18 tuổi, nhưng tham gia hành vi khác vào thời điểm trên 18 tuổi. Những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội có tác động làm tăng nguy cơ phạm tội, trong đó xâm phạm khách thể là tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người được pháp luật đặc biệt bảo vệ theo Chương XIV Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo báo gia đình sử dụng tiền tiết kiệm của mình, tích cực thăm hỏi, xin lỗi, bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại cùng gia đình bị hại và được họ có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đến nay, bị hại cùng gia đình bị hại không có yêu cầu khác. Bị cáo có ông ngoại được tặng thưởng nhiều huân, huy chương kháng chiến. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[9] Về áp dụng hình phạt chính: Trên cơ sở xem xét, đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vai trò đồng phạm thứ yếu, phạm tội dưới 18 tuổi, không trực tiếp gây thương tích cho bị hại; phân tích các tình tiết định khung hình phạt, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức độ bồi thường thiệt hại, nhận định nhân thân, thái độ, nguyện vọng, mong muốn sửa chữa sai phạm của bị cáo khi quyết định hình phạt. Bảo đảm nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo các quy định khoản 1, 3, 4, 6 Điều 91 của Bộ luật Hình sự chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Cần xử phạt bị cáo hình phạt tù ở mức trên khởi điểm đề nghị của Viện Kiểm sát, bảo đảm tính công minh của pháp luật, giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm.

[10] Về dân sự: Bị hại đã được 03 gia đình của bị cáo, các cháu C, K bồi thường 40.000.000 đồng và không yêu cầu bồi thường, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[11] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần chấp nhận quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát, ý kiến của bị cáo, ý kiến của ông Đào Ngọc B là bố của cháu Đào Ngọc Q, cần tịch thu tiêu hủy đối với vật chứng liên quan tội phạm của bị cáo là: 01 kiếm dài khoảng 80cm, ngang dài 04cm bằng kim loại sáng màu có vỏ bằng kim loại và 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 55cm, ngang dài 05cm, cán và vỏ bao bằng gỗ.

[12] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1,3,4,6 Điều 91, khoản 1 Điều 101, các điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Ngọc D 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam ngày 12 tháng 7 năm 2021.

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ: 01 kiếm dài khoảng 80cm, ngang dài 04cm bằng kim loại sáng màu có vỏ bằng kim loại và 01 con dao có lưỡi bằng kim loại dài 55cm, ngang dài 05cm, cán và vỏ bao bằng gỗ. (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 10 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hồng Bàng và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng).

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 72/2021/HS-ST

Số hiệu:72/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về