Bản án về tội cố ý gây thương tích số 65/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 65/2022/HS -ST NGÀY 29/12/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 12 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 22/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Bùi Văn T (tên gọi khác: không), sinh ngày 05/05/2001 tại xã Q, huyện L, tỉnh H; Nơi cư trú: Xóm M, xã Q, huyện L, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn D, sinh năm 1976 và bà Bùi Thị M, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giam từ ngày 19/09/2022 đến ngày 07/11/2022; hiện được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Bùi Văn H (tên gọi khác: không), sinh ngày 17/09/2003 tại xã Q, huyện L, tỉnh H; Nơi cư trú: Xóm Trám Chất, xã Q, huyện L, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H, sinh năm 1975 và bà Bùi Thị D, sinh năm 1983; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/09/2022 đến nay; được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

3. Bùi Huy H1 (tên gọi khác: không), sinh ngày 02/10/2004 tại xã Q, huyện L, tỉnh H; Nơi cư trú: Xóm Rẽ Vơng, xã Q, huyện L, tỉnh H; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn T, sinh năm 1980 và bà Bùi Thị M, sinh năm 1983; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Bùi Huy H1: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1981. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Nơi cư trú: Xóm R, xã Q, huyện L, tỉnh H là bố đẻ bị cáo (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Huy H1: Ông Bùi Văn M – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H (có mặt).

- Bị hại: Bùi Xuân H2, sinh năm 2003. Nơi cư trú: Xóm Đảng 2, xã Q, huyện L, tỉnh H (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Bùi Thị M, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Xóm M, xã Q, huyện L, tỉnh H (có mặt).

+ Ông Bùi Văn H, sinh năm 1975. Nơi cư trú: Xóm T, xã Q, huyện L, tỉnh H (có mặt).

+ Ông Bùi Văn Q, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Xóm Đ 2, xã Q, huyện L, tỉnh H (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Bùi Văn H, sinh năm 2004. Nơi cư trú: Xóm G, xã Q, huyện L, tỉnh H (vắng mặt).

+ Bùi Văn Q, sinh năm 2004. Nơi cư trú: Xóm G, xã Q, huyện L, tỉnh H (vắng mặt).

+ Quách Minh K, sinh năm 2004. Nơi cư trú: Xóm M, xã Q, huyện L, tỉnh H (vắng mặt).

+ Quách Văn C sinh năm 2002. Nơi cư trú: Xóm É, xã Q, huyện L, tỉnh H (vắng mặt).

+ Bùi Văn K, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Xóm K, xã Q, huyện L, tỉnh H (vắng mặt).

+ Bùi Văn D, sinh năm 1969. Nơi cư trú: Xóm K, xã Q, huyện L, tỉnh H(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 24/6/2022, Bùi Xuân H2, sinh năm 2003, trú tại xóm Đảng 2, xã Q, huyện L, tỉnh H, sau khi tắm và uống bia tại suối Bai Cai thuộc xóm Khải Cai, xã Q, huyện L, tỉnh H xong, có đi ra về. Khi ra đến chỗ để xe máy gần khu vực suối Bai Cai thì gặp nhóm của Bùi Văn T, Bùi Văn H, Bùi Huy H1. Tại đây, giữa Bùi Xuân H2 và Bùi Văn T xảy ra mâu thuẫn hai bên cãi cọ, lời qua tiếng lại với nhau về chuyện “Nẹt bô xe máy”. Trong quá trình hai bên cãi chửi nhau, thì có ông Bùi Văn Dương và Bùi Văn Khải, cùng trú tại: xóm K, xã Q, huyện L, tỉnh H (là người quản lý khu vực suối Bai Cai) ra can ngăn nên H2 và Tr thôi không cãi nhau nữa. Trước khi đi ra về, Bùi Xuân H2 có lời nói thách thức với nhóm của Bùi Văn T với hàm ý, thách thức nhóm Bùi Văn T không ra về khỏi suối Bai Cai được. Sau đó, Bùi Xuân H2 phóng xe đi ra trước, khi đi qua cầu bằng tre bắc qua mương nước cách chỗ để xe một đoạn thì Bùi Xuân H2 dừng xe lại, mục đích để chặn xe Bùi Văn T đi ra sau.

Đến khoảng 17 giờ, cùng ngày, Bùi Văn T đi xe đến, thấy Bùi Xuân H2 đang ngồi trên xe đợi thì Bùi Văn T dừng xe lại, rồi giữa Bùi Xuân H2 và Bùi Văn T tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, dẫn đến lời qua tiếng lại, cãi cọ nhau. Lúc đó, có Bùi Văn Q, sinh năm 2003 và Quách Minh C, sinh năm 2004, cùng trú tại xã Q chứng kiến và can ngăn. Trong quá trình Bùi Xuân H2 và Bùi Văn T cãi nhau, Bùi Xuân H2 giơ tay phải lên đấm về phía Bùi Văn T nhưng không trúng. Bùi Văn T nảy sinh bực tức nên đã dùng tay phải đấm 01 (một) lần vào vùng trán bên trái của Bùi Xuân H2, khiến H2 loạng choạng và bị ngã ngồi xuống đất; Bùi Văn T tiếp tục lao vào đấm tiếp 01 (một) cái nữa vào vùng gáy của H2. Khi Bùi Xuân H2 nằm co người tay ôm đầu dưới đất thì Bùi Văn T tiếp tục dùng tay phải tát 01 (một) cái vào mang tai bên phải của Bùi Xuân H2.

Quá trình Bùi Văn T đang đánh Bùi Xuân H2 thì Bùi Huy H1 và Bùi Văn H đi ra sau và nhìn thấy Bùi Văn T đang đánh Bùi Xuân H2. Thấy vậy, Bùi Huy H1 và Bùi Văn H dừng xe lại và cũng lao vào để đánh Bùi Xuân H2. Trong quá trình đó, Bùi Văn H dùng mũ bảo hiểm lưỡi trai, màu đen đập 02 (hai) lần liên tiếp vào vùng đầu của Bùi Xuân H2 làm vỡ mũ và vứt mũ bảo hiểm bị vỡ xuống đất, gần khu vực hiện trường; sau đó Bùi Văn H tiếp tục dùng tay phải đấm móc liên tiếp 02 (hai) cái vào mũi, miệng của Bùi Xuân H2 khi H2 đang ngồi xổm dưới đất.

Khi Bùi Xuân H2 ngã nằm xuống đất thì Bùi Văn H tiếp tục dùng tay phải đấm tiếp 02 (hai) lần nữa vào sau gáy của Bùi Xuân H2. Còn Bùi Huy H1 dùng tay phải đấm 02 (hai) lần liên tiếp vào vùng mặt của Bùi Xuân H2, khi thấy Bùi Xuân H2 ngã xuống đất, Bùi Huy H1 tiếp tục đấm 02 (hai) lần nữa vào vai, tay bên phải của Bùi Xuân H2, khi thấy H2 bị thương có chảy máu ra ở vùng mũi, mồm thì H và H1 không đánh nữa. Ngay sau đó, Công an viên xóm Khải Cai đến hiện trường tổ chức bảo vệ hiện trường và đưa những người liên quan trong vụ đánh nhau trên đến Công an xã Q, huyện L, tỉnh H làm việc. Sau đó, Bùì Xuân H2 được người thân trong gia đình đưa đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh H và Trung tâm y tế huyện S từ ngày 24/06 - 05/07/2022.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 136/TgT, ngày 20/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh H, kết luận: 1. Dấu hiệu chính qua giám định: Tụ máu dưới màng cứng, điều trị nội khoa ổn định; tổn thương tháp mũi; sẹo khuỷu tay trái. 2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 16% (mười sáu phần trăm)

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen bằng nhựa và vải xốp, đã vỡ thành 04 (bốn) mảnh to nhỏ khác nhau, kích thước không xác định, mặt ngoài của một mảnh vỡ có ghi chữ I love you và in hình hai ngôi sao. Mũ bảo hiểm được niêm phong trong hộp giấy, trên hộp giấy niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong là vật chứng trong vụ án được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện S chờ xử lý..

* Về phần trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra, các bị cáo đã tác động cùng gia đình bồi thường cho bị hại Bùi Xuân H2 số tiền là 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng). Bị hại Bùi Xuân H2 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm.

Quá trình giải quyết vụ án các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S thu thập được.

Tại bản cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện S, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị H2 đồng xét xử áp dụng Điều 134 Bộ luật hình sự tuyên bố các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn H, Bùi Huy H1phạm tội “Cố ý gây thương tích” ; đề nghị H2 đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,e,s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T từ 24 đến 30 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn Htừ 18 đến 24 tháng tù.

+ Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Huy H1 từ 18 đến 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

Về vật chứng vụ án : Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự ; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy chiếc mũ bảo hiểm đã vỡ của bị cáo Bùi Văn H.

Bào chữa cho bị cáo Bùi Huy H1, Trợ giúp viên pháp lý Bùi Văn M: Đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố, đồng thời đề nghị H2 đồng xét xử xem xét điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân và quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo hướng cho bị cáo Bùi Huy H1 được hưởng mức án từ 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

Các bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố, bị cáo Bùi Huy H1 nhất trí với quan điểm của người bào chữa, không có ý kiến bổ sung và xin giảm nhẹ hình phạt. Bị hại Bùi Xuân H2 nhất trí với đường lối xử lý của Viện kiểm sát, không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường khoản gì thêm, đồng thời đề nghị H2 đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hay yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, H2 đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện S, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo, H2 đồng xét xử nhận thấy lời khai nhận của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản khám nghiệm và bản ảnh hiện trường ngày 04/07/2022; biên bản thực nghiệm điều tra và bản ảnh thực nghiệm ngày 31/08/2022; Bệnh án và bản kết quả giám định thương tích số 136/TgT, ngày 20/7/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh H; lời khai của bị hại; người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 24/6/2022, tại xóm Khải Cai, xã Q, huyện L, tỉnh H. Do có mâu thuẫn từ việc bị Bùi Xuân H2 chặn xe nên các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Huy H1 dùng tay đấm nhiều lần vào người Bùi Xuân H2; bị cáo Bùi Văn H dùng mũ bảo hiểm đập và dùng tay không đấm vào người Bùi Xuân H2 gây thương tích dẫn tới hậu quả anh Bùi Xuân H2 bị tổn hại 16% (mười sáu phần trăm) sức khỏe so với tình trạng sức khỏe trước khi bị xâm hại. Vì vậy, việc các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện S truy tố là có cơ sở đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời có đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã H2, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã H2 và ảnh hưởng đến sức khoẻ của bị hại. Vì vậy cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để giáo dục phòng ngừa tội phạm nói chung.

Xem xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án H2 đồng xét xử xét thấy: Trong vụ án này, mặc dù các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, phân nhiệm rõ ràng nên không thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm có tổ chức chỉ là đồng phạm giản đơn.

+ Đối với Bùi Văn T là người khởi xướng, từ những mâu thuẫn nhỏ trước đó với Bùi Xuân H2 nên khi bị Bùi Xuân H2 chặn đánh bị cáo đã có hành vi đánh trả, là người thực hành đầu tiên và dùng tay đánh đấm vào đầu, người anh Bùi Xuân H2, Bị cáo khởi xướng cho hành vi gây thương tích cho bị hại. Đây là nguyên nhân để khi Bùi Văn H và Bùi Huy H1 đến chỗ của bị cáo đang đánh Bùi Xuân H2 và tại đây các bị cáo đã có hành vi gây thương tích cho Bùi Xuân H2. Bị cáo rất tích cực trong việc dùng tay nhiều lần đấm vào người và mặt gây thương tích cho Bùi Xuân H2. Bị cáo tuổi còn trẻ, khi thực hiện hành vi phạm tội, nhưng chỉ vì một vài mâu thuẫn nhỏ và bị bị hại kích động về tinh thần mà gây thương tích cho bị hại. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, kỷ cương của nhà nước, vì vậy cần phải có một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo. Tuy nhiên khi xem xét hình phạt H2 đồng xét xử cũng cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội lần đầu Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự ; bị cáo tự nguyện cùng các bị cáo khác bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ; Bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã H2 đặc biệt khó khăn và có nơi cư trú ổn định tại xã Q, huyện L, tỉnh H. Đó là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, e, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy, chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã H2 mà nên áp dụng với bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ giáo dục cải tạo các bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách pháp luật hình sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước.

+ Đối với bị cáo Bùi Văn H, là người đã trưởng thành lẽ ra bị cáo phải can ngăn đối với bạn bè nhưng ngược lại, khi thấy Bùi Văn T và Bùi Xuân H2 đang xảy ra xô xát Bùi Văn Hkhông những không khuyên và can ngăn mà còn cùng với Bùi Huy H1đến hỗ trợ Bùi Văn T. Khi xảy ra xô xát bị cáo là người trực tiếp dùng mũ bảo hiểm (loại mũ lưỡi trai) đập vào đầu và dùng tay đấm vào người bị hại, thương tích của Bùi Văn H2 chủ yếu do hành vi dùng mũ bảo hiểm đập vào đầu của bị cáo gây nên, do vậy trong vụ án này bị cáo H là người thực hành với vai trò tích cực. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, kỷ cương của nhà nước nên cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, H2 đồng xét xử cũng đã cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là : Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự ; sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả ; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã H2 đặc biệt khó khăn và có nơi cư trú ổn định tại xã Q, huyện L, tỉnh H. Đó là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy, chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã H2 mà nên áp dụng với bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ giáo dục cải tạo các bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách pháp luật hình sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước.

+ Đối với Bùi Huy H1sau khi thấy bị cáo Tr và bị cáo H đánh anh H2 thì bị cáo đã nhiệt tình hưởng ứng và dùng tay đấm hai cái vào vùng mặt anh H2, sau khi anh H2 ngã bị cáo đấm tiếp vào vùng vai, tay của anh H2. Bị cáo tuổi còn trẻ, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, đáng nhẽ bị cáo phải tu trí học hành, lao động làm người có ích cho xã H2, nhưng chỉ vì một vài mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo đã cùng bị cáo Tr, H gây thương tích cho bị hại. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, kỷ cương của nhà nước, vì vậy cần phải có một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo. Tuy nhiên khi xem xét hình phạt H2 đồng xét xử cũng cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội lần đầu Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự ; bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện cùng các bị cáo khác bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải ; người bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; Bị cáo có ông nội và ông ngoại là người có công với cách mạng ; bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã H2 đặc biệt khó khăn và có nơi cư trú ổn định tại xã Q, huyện L, tỉnh H. Đó là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét thấy, chưa cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã H2 mà nên áp dụng với bị cáo hình phạt tù có điều kiện cũng đủ giáo dục cải tạo các bị cáo, đồng thời thể hiện chính sách pháp luật hình sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước. Đồng thời H2 đồng xét xử xét thấy quan điểm bào chữa cho bị cáo Bùi Huy H1của Trợ giúp viên pháp lý Bùi Văn M tại phiên tòa là có căn cứ. Do vậy, H2 đồng xét xử chấp nhận một phần quan điểm bào chữa, đã xem xét trong quá trình lượng hình.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo và gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền là 60.000.000 đồng. Tại phiên tòa người bị hại là anh Bùi Xuân H2 không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên H2 đồng xét xử không xét đến.

[5] Về vật chứng vụ án: Xét thấy cần tịch thu tiêu hủy đối với 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen bằng nhựa và vải xốp, đã vỡ thành 04 (bốn) mảnh to nhỏ khác nhau, kích thước không xác định, mặt ngoài của một mảnh vỡ có ghi chữ I love you và in hình hai ngôi sao.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn H, Bùi Huy H1phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

2.Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b,e,s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời hạn thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/12/2022.

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn H24 (hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời hạn thử thách là 48 (bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/12/2022. - Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 17;

Điều 58; Điều 90; Điều 91; Điều 101; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Huy H118 (mười tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời hạn thử thách là 36 (ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/12/2022.

Giao bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn H, Bùi Huy H1cho UBND xã Q, huyện L, tỉnh H để quản lý giáo dục trong thời gian chấp hành án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với: 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen bằng nhựa và vải xốp, đã vỡ thành 04 (bốn) mảnh to nhỏ khác nhau, kích thước không xác định, mặt ngoài của một mảnh vỡ có ghi chữ I love you và in hình hai ngôi sao. Mũ bảo hiểm được niêm phong trong hộp giấy, trên hộp giấy niêm phong có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong (Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện S và Chi cục thi hành án dân sự huyện S ngày 21/12/2022).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc H2, buộc các bị cáo Bùi Văn T, Bùi Văn H, Bùi Huy H1mỗi người phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về