Bản án về tội cố ý gây thương tích số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm Công khai vụ án hình sự thụ lý số 02/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

- Họ và tên: Nguyễn Văn C; tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 15/11/1997; nơi sinh: Huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; CCCD số: 04209700xxxx, cấp ngày: 07/6/2022, nơi cấp: Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; con ông Nguyễn Đăng Ng và bà Trần Thị Th; Vợ Mai Thị Nh và 04 con lớn nhất sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2023; tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 06/11/2020 bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Hà Tĩnh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng, đến ngày 11/02/2022 chấp hành xong quyết định; bị cáo bị tạm giam từ ngày 09/11/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Phạm Thị D; Sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Giáo viên; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Trần Thị M; Sinh năm 1998; Nơi cư trú: Thôn Tr, xã XL, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

+ Anh Trần T; Sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

+ Anh Trần Văn Th; Sinh năm 1985; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

- Nguời làm chứng:

+ Anh Nguyễn Anh T; Sinh năm 1986; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

+ Anh Trần Xuân Ph; Sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

+ Chị Mai Thị Nh; Sinh năm 1996; Nơi cư trú: Thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 20/10/2023, Trần Văn Th, sinh năm 1985, Trần Xuân Ph, sinh năm 1992, Nguyễn Anh T, sinh năm 1986, đều trú tại thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh đến nhà hàng Bảo Phát ở thôn Th, xã X, huyện N do anh Trần Hoài N, sinh năm 1990 làm chủ để tổ chức sinh nhật cho Nguyễn Anh T. Quá trình Nguyễn Anh T tổ chức sinh nhật thì Nguyễn Văn C đến phụ giúp cho chủ quán rồi cùng tham gia ăn uống với những người nói trên. Trong lúc ăn uống, do có khách bị say nên Trần Xuân Ph cùng cháu Trần Gia Ph, sinh năm 2016 (con trai chủ quán) chở khách đi về, còn những người khác tiếp tục ngồi ăn uống. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi ăn uống xong thì Trần Văn Th, Nguyễn Anh T và Nguyễn Văn C mỗi người điều khiển một xe máy đi về nhà. Khi đi đến đoạn gần cổng nhà nghỉ S thuộc thôn Thành H, xã X thì gặp Trần Xuân Ph chở theo cháu Trần Gia Ph đang trên đường quay về nên Trần Văn Th, Nguyễn Anh T và Nguyễn Văn C dừng lại nói chuyện. Quá trình nói chuyện giữa C và Trần Xuân Ph xảy ra mâu thuẫn to tiếng cãi vã và lao vào đánh nhau. Thấy vậy, Trần Văn Th và Nguyễn Anh T đến can ngăn. Trong lúc can ngăn thì giữa C và Th xảy ra mâu thuẫn, thách thức nhau, Th nói “mi thích thì về nhà tau” rồi mọi người tiếp tục đi về. Sau đó, C đi đến quán V ở thôn Y, xã XY, huyện N (nơi C thuê ở) và vào phòng ngủ lấy 01 khẩu súng PCP Condor, chiều dài 78 cm, thân súng làm bằng kim loại, tay cầm và và ốp lót tay được làm bằng gỗ màu nâu, trên thân súng có ống ngắm dài 31,5 cm, phía sau súng có bình nén khí hình trụ tròn dài 32 cm, bình nén khí và phần nòng súng được quấn băng keo màu đen cùng 02 viên đạn chì kích thước dài 08mm, một đầu có hình cầu đường kính 05mm, một đầu bị lõm vào trong có đường kính 05mm mà C mua của một người không quen biết ở trên mạng xã hội trước đó rồi đặt súng dọc bên phải theo thân xe máy Winner biển kiểm soát 38N1-xxxxx và điều khiển xe đi đến nhà anh Trần Văn Th. Khi đến, do cổng nhà bị khoá nên C dừng xe trên đường nhựa, rú ga và to tiếng gọi anh Th. Nghe tiếng C gọi nên anh Trần Văn Th và chị Phạm Thị D, sinh năm 1986 (vợ của anh Th) mở cửa đi ra đứng ở khu vực sân, cách nơi C dừng xe khoảng 20m. Sau đó, chị D nói chuyện và khuyên C đi về thì C lấy súng bỏ đạn vào rồi kê nóng súng trên yên xe hướng vào vị trị nơi anh Th và chị D đang đứng bắn 02 phát, trong đó phát đầu tiên trúng vào vùng chậu bẹn bên trái của chị D còn phát thứ 2 không trúng. Hậu quả làm chị D bị thương phải điều trị tại bệnh viện H đa khoa tỉnh Nghệ An từ ngày 20/10/2023 đến ngày 25/10/2023 thì ra viện.

Sau khi gây thương tích cho chị Phạm Thị D thì Nguyễn Văn C đi đến nhà chị Trần Thị M, sinh năm 1998, trú tại thôn Tr, xã XL, huyện N và chở chị M đi chơi. Đến sáng ngày 21/10/2023, Nguyễn Văn C đi đến thôn An, xã X, huyện N và đưa khẩu súng PCP Condor vào cất dấu ở phía sau tiệm xăm hình của anh Trần T, sinh năm 1997, trú tại thôn H, xã X, huyện N rồi bỏ trốn khỏi địa phương. Đến ngày 09/11/2023, Nguyễn Văn C quay về huyện N thì bị lực lượng Công an huyện N phát hiện đưa về trụ sở làm việc và thu giữ khẩu súng nói trên.

Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 279/TgT ngày 09/11/2023 của Trung tâm pháp y và giám định y khoa Sở y tế Hà Tĩnh, kết luận:

+ Vùng sát gai chậu trước trên bên trái sẹo phẫu thuật mở rộng vết thương kích thước 05cm x 0,6cm. Tỷ lệ TTCT là: 03%.

+ Vùng mông lưng bên trái sẹo phẫu thuật kích thước trung bình. Tỷ lệ TTCT là: 02%.

Căn cứ và áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế Quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, giám định Pháp y tâm thần xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chị Phạm Thị D tại thời điểm giám định là 05% (năm phần trăm).

Kết luận khác: Thương tích do vật tày có gia tốc mạnh khả năng đâm xuyên cao gây nên.

Tại bản Kết luận giám định số 1173/KL-KTHS ngày 01/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh, kết luận:

- Viên đạn ký hiệu M1 gửi đến giám định là đạn chì cỡ 5,5mm được sử dụng cho khẩu súng hơi, thuộc súng săn, không sử dụng cho vũ khí quân dụng.

- Khẩu súng ký hiệu M2 gửi đến giám định là khẩu súng hơi, thuộc súng săn không phải là vũ khí quân dụng. Khi súng bắn đạn vào cơ thể người có thể gây chết người hoặc bị thương.

- Viên đạn ký hiệu M1 được bắn ra từ khẩu súng ký hiệu M2.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 khẩu súng PCP Condor (súng nén khí) chiều dài 78cm, thân súng làm bằng kim loại, tay cầm và ốp lót tay được làm bằng gỗ màu nâu, trên thân súng có ống ngắm dài 31,5cm, phía phía sau súng có bình nén khí hình trụ tròn dài 32cm, bình nén khí và phần nòng súng được quấn bằng băng keo màu đen. 01viên đạn chì kích thước dài 08mm, một đầu có hình cầu đường kính 05mm, một đầu bị lõm vào trong đường kính 05mm. Số vật chứng nêu trên hiện đã chuyển đến Chi cục THADS huyện N để xử lý theo pháp luật.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu hiệu Winner biển kiểm soát 38N1.xxxxx hiệu Winner biển kiểm soát 38N1.xxxxx mang tên Nguyễn Văn C là phương tiện C sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, trong thời gian bỏ trốn C đã bán chiếc xe máy này cho một người không quen biết nên không thu giữ được.

Trách nhiệm dân sự: Nguyễn Văn C chưa bồi thường chi phí điều trị và phục hồi sức khỏe cho chị Phạm Thị D; nhưng do C có hoàn cảnh khó khăn nên chị Phạm Thị D không yêu cầu Nguyễn Văn C bồi thường về dân sự.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 03/CT –VKSNX ngày 18/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội D bản Cáo trạng đã nêu.

Người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tuy nhiên lời khai có tại hồ sơ như lời trình bày của bị cáo và nội D bản cáo trạng.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”; đề nghị áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn C mức án từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 09/11/2023. Ngoài ra còn đề xuất xử lý vật chứng và án phí.

Bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có tranh luận gì với luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi và quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo, người bị hại trong quá trình điều tra, công cụ dùng vào việc phạm tội;

phù hợp với Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 279/TgT ngày 09/11/2023 của Trung tâm pháp y và giám định y khoa Sở y tế Hà Tĩnh và Kết luận giám định số 1173/KL-KTHS ngày 01/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh về thương tích, cơ chế hình thành vết thương và các chứng cứ khác có tại hồ sơ, như vậy đủ cơ sở kết luận: Do mâu thuẫn với anh Trần Văn Th trong lúc can ngăn đánh nhau nên khoảng 22 giờ 30 phút ngày 20/10/2023 Nguyễn Văn C đã đi đến nhà anh Th ở thôn Thành H, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh và dùng khẩu súng PCP Condor là súng hơi, thuộc súng săn hướng vào vị trí sân nơi anh Th và chị Phạm Thị D (Vợ anh Th) đang đứng bắn 02 phát, trong đó phát đầu tiên trúng vào vùng chậu bẹn bên trái của chị D làm cho chị D bị thương phải đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện H Đa khoa tỉnh Nghệ An. Kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể của chị Phạm Thị D do thương tích gây nên là: 05% (năm phần trăm).

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C gây thương tích cho Phạm Thị D với tỷ lệ tổn thương cơ thể 05% là dưới 11% nhưng bị cáo dùng súng là hung khí nguy hiểm và phạm tội mang tính chất côn đồ. Bị cáo thực hiện hành vi trên khi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, không thuộc tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Vì vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Do đó việc truy tố, xét xử bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, động cơm mục đích thực hiện hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Xét thấy cần buộc bị cáo chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhằm răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[7] Trong vụ án này có chị Trần Thị M là người đi cùng Nguyễn Văn C sau khi C thực hiện hành vi phạm tội rồi bỏ trốn. Tuy nhiên, Mai không biết được C đã dùng súng bắn gây thương tích cho chị Phạm Thị D nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.

Đối với anh Trần T là chủ tiệm xăm hình, địa điểm mà Nguyễn Văn C đưa khẩu súng đã bắn gây thương tích cho chị Phạm Thị D đến cất dấu. Tuy nhiên, tại thời điểm C cất dấu súng thì Tịnh không có mặt tại tiệm, C cũng không trao đổi cho T biết về việc gây thương tích cho chị Phạm Thị D mà tự ý mở cửa vào tiệm cất dấu súng. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trần T.

Ngoài hành vi phạm tội “Cố ý gây thương tích” Nguyễn Văn C còn có hành vi tàng trữ, sử dụng 01 khẩu súng PCP Condor là khẩu súng hơi, thuộc súng săn và 02 viên đạn chì sử dụng cho khẩu súng hơi, thuộc súng săn. Nhưng xét, C chưa bị kết án về tội: “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao hoặc C cụ hỗ trợ” quy định tại Điều 306 Bộ luật Hình sự hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này nên chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã lập hồ sơ xử lý hành chính đối với Nguyễn Văn C về hành vi tàng trữ, sử dụng súng săn là đúng quy định.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu gì về mặt dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: 01 khẩu súng PCP Condor (súng nén khí) chiều dài 78cm, thân súng làm bằng kim loại, tay cầm và ốp lót tay được làm bằng gỗ màu nâu, trên thân súng có ống ngắm dài 31,5cm, phía phía sau súng có bình nén khí hình trụ tròn dài 32cm, bình nén khí và phần nòng súng được quấn bằng băng keo màu đen. 01viên đạn chì kích thước dài 08mm, một đầu có hình cầu đường kính 05mm, một đầu bị lõm vào trong đường kính 05mm. Đây là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng: Căn cứ vào các điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

3. Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 09/11/2023.

4. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng PCP Condor (súng nén khí) chiều dài 78cm, thân súng làm bằng kim loại, tay cầm và ốp lót tay được làm bằng gỗ màu nâu, trên thân súng có ống ngắm dài 31,5cm, phía phía sau súng có bình nén khí hình trụ tròn dài 32cm, bình nén khí và phần nòng súng được quấn bằng băng keo màu đen; 01viên đạn chì kích thước dài 08mm, một đầu có hình cầu đường kính 05mm, một đầu bị lõm vào trong đường kính 05mm.

Tình trạng vật chứng có tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/01/2024 giữa Công an huyện N và Chi cục thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Hà Tĩnh.

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về