TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 53/2021/HS-PT NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2021/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Thanh T, do có kháng cáo của bị hại Trần Bá Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2021/HS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang.
- Bị cáo không có kháng cáo:
Nguyễn Thanh T, sinh năm 1977, tại P, Hậu Giang; Địa chỉ cư trú: ấp M, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D (chết) và bà Trần Thị T; bị cáo có vợ Trần Thị U và ba người con; tiền án không; tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/12/2020 đến nay. Bị cáo có mặt.
- Bị hại có kháng cáo: Trần Bá Q, năm sinh 1987; địa chỉ cư trú ấp M, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không có liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 14/9/2020, Nguyễn Thanh T đến dự đám tang tại nhà ông Huỳnh Công Đ ngụ ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang. Tại đám tang có Nguyễn Thanh T, Trần Bá Q, Nguyễn Văn D và Đoàn Quốc C vừa uống rượu và đánh bài thắng thua bằng tiền, trong lúc uống rượu và đánh bài thì T và Q cự cãi và dùng tay đánh nhau 02 lần thì được mọi người can ngăn, sau đó T đi về nhà. Do bực tức chuyện bị Q đánh nên T lấy dao quay lại nhà ông Đ chém Q để trả thù. T lấy 01 cây dao bằng kim loại màu đen dài 36,5cm, cán dao bằng kim loại, mũi bằng (loại dao chét) và 01 cây dao có lưỡi bằng kim loại màu trắng dài 34cm, cán dao bằng gỗ, mũi bằng (loại dao Thái bản lớn), sau đó cầm 02 cây dao quay lại kiếm Q.
Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, T núp trong hàng bông bụp cách nhà ông Đ khoảng 20 mét, lúc này Q từ trong đám tang đi ra và lên xe để Trần Quốc P chở về nhà, khi P chở Q đến vị trí Tâm đang núp thì T xông ra, tay phải cầm dao có lưỡi bằng kim loại màu trắng chém từ trên xuống, lúc này Q dùng tay trái đỡ nên bị té xuống lộ, T tiếp tục dùng dao có lưỡi bằng kim loại màu trắng chém nhiều cái về phía Q gây thương tích. Sau đó Q chạy vào đám tang và được mọi người đưa đi Bệnh viện Đa khoa thành phố N điều trị vết thương. T về nhà cất 02 cây dao. Đến 23 giờ 30 cùng ngày, Trần Quốc P đến Công an xã T, huyện P trình báo nội dung sự việc.
Tại bản Kết luận giám định số 159/20/TgT ngày 03/11/2020 của Trung tâm Pháp Y thuộc Sở y tế Hậu Giang xác định thương tích và kết luận đối với Trần Bá Q cụ thể như sau:
- Về thương tích:
+ Vết mổ mở rộng vết thương mặt ngoài sau 1/3 dưới cẳng tay phải, kích thước: 10,5 x 0,6cm đã lành (Vết gây gãy 1/3 dưới 02 xương cẳng tay phải, đứt nhánh thần kinh quay phải, đứt gân duỗi cổ tay quay, gân duỗi cổ tay trụ từ ngón I- V bàn tay phải).
+ Vết mổ mở rộng vết thương hình chữ V, mặt trong đốt giữa xa ngón III bàn tay phải, kích thước: 04-04 x 0,6cm đã lành, bờ mép sắc gọn (Vết gây gãy xương đốt giữa gây đứt gân gấp ngón III).
+ Vết thương đốt gần ngón IV bàn tay phải, kích thước: 04 x 0,4cm đã lành, bờ mép sắc gọn (Vết gây đứt gân gấp ngón IV).
+ Vết thương đốt gần ngón V bàn tay phải, kích thước: 4,5 x 0,5cm đã lành, bờ mép sắc gọn (Vết gây đứt gân gấp ngón V).
+ Vết thương lòng bàn tay trái, kích thước: 02 x 0,7cm đã lành, bờ mép sắc gọn.
- Phần kết luận:
1. Dấu hiệu chính tại thời điểm giám định:
+ Đa vết thương phần mềm.
+ Đứt đa gân cổ, ngón tay phải.
+ Đứt nhánh thần kinh quay.
+ Gãy đa xương.
2. Kết luận:
+ Tổng tỷ lệ thương tích tổn hại đến sức khỏe hiện tại là: 32%.
+ Vật gây thương tích: Các vết thương trên do vật sắc bén gây nên.
+ Có để lại cố tật hay không? Có ảnh hưởng đến thẩm mỹ hay không: Không xác định.
Đối với hành vi đánh bạc mà Nguyễn Thanh T, Trần Bá Q, Nguyễn Văn D và Đoàn Quốc C thực hiện, quá trình điều tra xác định chưa đủ định lượng cấu thành tội đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc trái phép với số tiền 1.500.000 đồng/01 người.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS-ST ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác”.
- Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 3, Điều 38, Điều 50, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 586 và 590 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T có nghĩa vụ bồi thường cho Trần Bá Q tổng số tiền 42.716.762đ (bốn mươi hai triệu bảy trăm mười sáu ngàn bảy trăm sáu mươi hai đồng) nhưng được khấu trừ từ 10.000.000đ (mười triệu đồng) do Trần Thị U nộp khắc phục hậu quả theo biên lai thu số 0007527, ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Hậu Giang. Số tiền còn lại phải bồi thường 32.716.762đ (ba mươi hai triệu bảy trăm mười sáu ngàn bảy trăm sáu mươi hai đồng).
Trần Bá Q được liên hệ Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Hậu Giang nhận số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) do Trần Thị U nộp khắc phục hậu quả theo biên lai thu số 0007527, ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Hậu Giang.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 04 tháng 5 năm 2021, bị hại Trần Bá Q có đơn kháng cáo yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 30.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Trần Bá Q trình bày: Trong số tiền 30.000.000 đồng yêu cầu bị cáo bồi thường bao gồm 5.000.000 đồng tiền thuốc điều trị bên ngoài và 25.000.000 đồng tiền mất thu nhập sau khi xuất viện vì hiện tại khả năng lao động bị hạn chế so với lúc trước khi bị thương tích, nhưng xin rút lại yêu cầu kháng cáo đối với số tiền 5.000.000 đồng tiền thuốc điều trị bên ngoài.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại rút một phần kháng cáo đối với số tiền 5.000.000 đồng tiền thuốc điều trị bên ngoài nên đề nghị áp dụng Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ yêu cầu kháng cáo này của bị hại. Đối với khoản thu nhập thực tế bị mất thì cần xác định thêm thời gian sau khi bị hại xuất viện phải ở nhà điều trị. Vì vậy, đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại, sửa án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại Trần Bá Q có đơn kháng cáo trong hạn luật định, phù hợp với quy định tại các điều 331, 332 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, được Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thanh T vẫn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đã tuyên. Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đã đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẩn trong lúc chơi bài tại đám tang nhà ông Huỳnh Công Đ và bị Trần Bá Q đánh, nên Nguyễn Thanh T nảy sinh ý định chém lại Q nên T đi về nhà chuẩn bị một cây dao chét và một cây dao thái lan bản lớn và trở lại đám tang để chém Q. Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 14/9/2020, khi Q rời khỏi đám tang thì bị T dùng dao chém nhiều nhát trúng tay của Q gây thương tích 32%. Hành vi trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử tuyên bố bị cáo T phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” là chưa phù hợp, nên điều chỉnh lại, cần rút kinh nghiệm. Về hình phạt đối với bị cáo T, do không có kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét [3] Bản án sơ thẩm buộc bị cáo bồi thường tiền thuốc, tiền tàu xe đi lại và tiền thu nhập thực tế bị mất của bị hại và người chăm sóc bị hại trong thời gian điều trị tại bệnh viện với số tiền 20.366.762 đồng, khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là 15 tháng lương cơ sở nhân với 1.490.000 đồng/tháng là 22.350.000 đồng, tổng cộng là 42.716.762 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Q xác định trong số tiền 30.000.000 đồng yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm có 5.000.000 đồng là tiền thuốc bị hại mua thêm bên ngoài và tiền tàu xe đi lại điều trị và 25.000.000 đồng là tiền mất thu nhập từ khi sau khi xuất viện đến nay.
[4] Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường chi phí điều trị bên ngoài gồm tiền mua thuốc bên ngoài và tiền tàu xe: Tại phiên tòa, bị hại xin rút kháng cáo đối với số tiền này nên căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu kháng cáo này của bị hại.
[5] Xét kháng cáo yêu cầu bồi thường thêm số tiền mất thu nhập: Bị hại cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét giải quyết phần thu nhập thực tế bị mất trong thời gian điều trị tại bệnh viện, còn thời gian từ khi xuất viện trở về sau chưa được xem xét nên bị hại yêu cầu bồi thường phần thu nhập thực tế bị mất sau khi xuất viện là 25.000.000 đồng. Xét thấy, theo hồ sơ phẩu thuật thể hiện sau khi xuất viện (ngày 21/9/2020), có hẹn tái khám ngày 01/10/2020. Tuy nhiên, bị hại không đi tái khám mà cho rằng có mua thuốc bên ngoài để điều trị, không có hóa đơn theo chỉ định của bác sĩ. Xét thấy thương tích của bị hại bị gãy đa xương, đứt đa gân cổ, ngón tay phải, đứt nhánh thần kinh quay nên cần thời gian điều trị, nghỉ dưỡng để phục hồi sức khỏe. Trong thời gian này, bị hại không thể lao động được và do đó khoản thu nhập thực tế bị mất trong thời gian này phải được bị cáo bồi thường. Bị hại Q thuộc thành phần lao động ở nông thôn, thu thập chủ yếu từ công việc làm thuê (đốn mía), không ổn định và không thể xác định được nên áp dụng mức thu thập trung bình của lao động cùng loại ở địa phương (có xác nhận của chính quyền địa phương) là 200.000 đồng/ngày, chấp nhận thêm một phần tiền mất thu nhập của của bị hại sau khi xuất viện là 70 ngày nhân với 200.000 đồng/ngày với số tiền 14.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền bị cáo có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại là 56.716.762 đồng.
[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại, sửa án sơ thẩm về trách nhiệm bồi thường phần thu nhập thực tế bị mất.
[7] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định. Án phí dân sự phúc thẩm không ai phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng cáo của bị hại Trần Bá Q về yêu cầu bồi thường tiền thuốc điều trị là 5.000.000 đồng không theo chỉ định của bác sĩ.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị hại Trần Bá Q về yêu cầu bồi thường thêm khoản thu nhập thực tế bị mất. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS- ST ngày 20 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Hậu Giang về trách nhiệm dân sự.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134, Điều 3, Điều 38, Điều 50, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 03 (ba) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 586 và 590 Bộ luật Dân sự 2015;
Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T có nghĩa vụ bồi thường cho bị hại Trần Bá Q số tiền 56.716.762 đồng.
Đối với số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng) do vợ bị cáo là Trần Thị U nộp theo Biên lai thu số 0007527, ngày 23 tháng 02 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh Hậu Giang sẽ được xử lý khi thi hành án về trách nhiệm dân sự của bị cáo bồi thường cho bị hại Trần Bá Q.
Án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 2.835.838 đồng. Về án phí dân sự phúc thẩm: Không ai phải chịu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 53/2021/HS-PT
Số hiệu: | 53/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về