TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 11/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Văn N, sinh năm 1967, tại tỉnh T; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Khu phố A P, phường A H, thị xã T, tỉnh T; nghề nghiệp: Chăn nuôi; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành X và bà Nguyễn Thị Ngọc A; vợ: Cao Thị B; con: Có 03 người, người lớn nhất sinh năm 1994, người nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15-5-2023; bị cáo có mặt tại phiên toà.
2. Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1996, tại tỉnh T; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Khu phố A P, phường A H, thị xã T, tỉnh T; nơi cư trú: Khu phố A Q, phường A H, thị xã T, tỉnh T; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (Là bị cáo trong vụ án) và bà Cao Thị B; vợ: Nguyễn Ngọc H; con: Có 01 người sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15-5-2023; bị cáo có mặt tại phiên toà.
Bị hại:
1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978 - Có mặt;
Địa chỉ: Khu phố B N 2, phường G B, thị xã T, tỉnh T.
2. Bà Nguyễn Thị P (O), sinh năm 1981 - Có mặt.
Địa chỉ: Khu phố T L, phường G L, thị xã T, tỉnh T.
3. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1985 - Có mặt.
Địa chỉ: Khu phố A P, phường A H, thị xã T, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 15-01-2023, ông Nguyễn Thành X và các người con là bà Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị P (O), Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Thị G cùng đến nhà Nguyễn Mạnh C (là cháu nội của ông X) thuộc khu phố A Q, phường A H, thị xã T, tỉnh T để nói chuyện về việc cầm mượn của ông X 01 lượng vàng 24K nhưng không chịu trả thì hai bên xảy ra cãi nhau, C nhặt 01 cục gạch ném về phía ông X nhưng không trúng rồi ông X cùng các con bỏ về. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, ông X cùng với bà L, P, H1, G, kêu thêm Võ Tấn N1 (là con nuôi của bà L), Trần Quốc T, Lê Tuấn A1 và 02 người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ, là bạn của N1) quay lại nhà C để tiếp tục nói chuyện. Nhưng do C khóa cửa cổng và cửa nhà không cho mọi người vào nên N1 và một người thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) dùng tay xô ngã cửa cồng để vào trong, yêu cầu C mở cửa nhà để nói chuyện nhưng C không mở mà gọi điện thoại cho Nguyễn Văn N (là cha ruột của C và là con ruột của ông X) đến để giải quyết sự việc. Khoảng 10 phút sau, N cùng vợ là bà Cao Thị B đến tiếp tục cãi nhau với nhóm của ông X nên N1, T, Tuấn A1 và 02 người thanh niên bỏ về.
Lúc này, C nhặt 01 cây xẻng, có cán bằng tầm vong dài 1,41m, lười xẻng bằng kim loại bị gãy một phần, cầm bằng 02 tay từ trong nhà chạy ra, đánh 01 cái từ trên xuống trúng vào vai phải của bà G làm xây xát da. Thấy vậy, N, bà L, bà P chạy đến giành giật cây xẻng với C. Cầm buông cây xẻng ra, dùng tay đánh vào mặt bà G và quay sang đánh, xô bà H1 té ngã. Riêng N khi giành được cây xẻng, cầm bằng 02 tay, đứng đối diện từ phía sau, đánh 01 cái từ trên xuống trúng vào vai trái của bà p làm xây xát da; bà P bỏ chạy; N tiếp tục cầm cây xẻng đuôi theo thì bị bà L và ông X ngăn lại. Thấy N bị can ngăn, C chạy đến đẩy bà L ra và xô ông X té ngã; Nguyện tiếp tục cầm cây xẻng bằng 02 tay, đánh 02 cái từ trên xuống trúng vào tay, chân của bà L; bà L bỏ chạy thì N cầm cây xẻng cùng c đuổi theo; N dùng cây xẻng đánh 03 cái từ trên xuống trúng vào lưng, hông, mông, tay, chân của bà L gây bầm tụ máu, xây xát da; C dùng 01 tay bóp cổ bà L thì được mọi người can ngăn.
Ngày 15-01-2023, bà L, bà P, bà G làm đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Nguyễn Văn N và Nguyễn Mạnh C.
Tại Bản Kết luận giám định số 82/KLTTCT-TTPYTN, ngày 10-4-2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị L tại thời điểm giám định là 06%.
Tại Bản Kết luận giám định số 80/KLTTCT-TTPYTN, ngày 10-4-2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị P tại thời điểm giám định là 01%.
Tại Bản Kết luận giám định số 81/KLTTCT-TTPYTN, ngày 10-4-2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị G tại thời điểm giám định là: Không có quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể.
Tại Cáo trạng số 41/CT-VKSTrB, ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố Nguyễn Văn N, Nguyễn Mạnh C về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N từ 06 tháng 09 tháng tù.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C từ 06 tháng 09 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận các bị cáo đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị L số tiền 5.000.000 đồng, bồi thường cho bà Nguyễn Thị P số tiền 2.000.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị G số tiền 2.000.000 đồng. Các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử lý các vật chứng đã thu giữ trong vụ án theo quy định pháp luật.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên, về bồi thường thiệt hại: Các bị cáo đã đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị L số tiền 5.000.000 đồng, bồi thường cho bà Nguyễn Thị P số tiền 2.000.000 đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị G số tiền 2.000.000 đồng nhưng do các bị hại không nhận nên các bị cáo đã nộp tiền tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T.
Tại phiên tòa, các bị hại trình bày như sau:
Bị hại Nguyễn Thị L: Yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm hình sự, xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Bị hại Nguyễn Thị p và Nguyễn Thị G: Yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền 2.000.000 đồng, không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm hình sự, xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Lời nói sau cùng của các bị cáo:
Bị cáo N: Bị cáo chỉ mới phạm tội lần đầu. Xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo C: Bị cáo đã biết hối lỗi về hành vi của bị cáo. Xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 15-01- 2023, tại khu phố A Q, phường A H, thị xã T, tỉnh T, vì mâu thuẫn nhau mà Nguyễn Văn N cùng với Nguyễn Mạnh c đã dùng tay, 01 cây xẻng có lười bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đánh bà Nguyễn Thị L gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06%, đánh bà Nguyễn Thị P gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.
Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với những chứng cứ của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với lời trình bày của các bị hại và những người làm chứng. Do đó đủ căn cứ kết luận các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
[3] Xét đề nghị truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đối với các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết “Dùng ... hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ” theo các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là không có căn cứ, bởi lẽ hành vi của các bị cáo không xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt mà do giữa các bị cáo và các bị hại, ông Nguyễn Thành X đã có mâu thuẫn từ trước. Hơn nữa vào ngày 15-01-2023, các bị hại đi cùng nhiều người đến nhà bị cáo C, dở cổng rào tiến vào nhà bị cáo C mặc dù bị cáo C đã đóng cửa nhà nên mới xảy ra đánh nhau. Chính vì vậy, hành vi của các bị cáo không có tính chất côn đồ. Hội đồng xét xử kết luận các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là phù hợp.
Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã cố ý xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để có tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Cụ thể:
Về tình tiết tặng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của các bị hại để khắc phục hậu quả, các bị cáo chỉ mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Ngoài ra, nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của các bị cáo cũng có một phần lỗi của các bị hại và tại phiên tòa các bị hại đều xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét vai trò của từng bị cáo thấy rằng: Trong vụ án này, hành vi phạm tội của các bị cáo là đồng phạm giản đơn. Trước khi thực hiện hành vi phạm tội, giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể cho từng người, không có sự câu kết chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Trong đó, bị cáo N là người gây ra thương tích chính cho các bị hại nên bị cáo N phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn so với bị cáo C.
Xét thấy các bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử phạt bị cáo N hình phạt tù cho hưởng án treo, xử phạt bị cáo C hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ để giáo dục, răn đe các bị cáo.
Do bị cáo C không có tài sản nên miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại yêu cầu các bị cáo bồi thường chi phí điều trị vết thương, cụ thể: Bị hại Nguyễn Thị L yêu cầu bồi thường số tiền 5.000.000 đồng, bị hại Nguyễn Thị P yêu cầu bồi thường số tiền 2.000.000 đồng và bị hại Nguyễn Thị G yêu cầu bồi thường số tiền 2.000.000 đồng. Các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của các bị hại nhưng do các bị hại không nhận nên các bị cáo đã nộp tiền bồi thường tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T, các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (Một) cây xẻng, cán bằng cây tầm vong dài 1,41m, kích thước lưỡi xẻng (9 x 16) cm; 01 (Một) viên gạch ống, màu vàng nhạt, bị bề, kích thước (18 x 18) cm là hung khí của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
[7] Đối với Võ Tấn N1 có hành vi làm hư hỏng cổng rào và cửa sắt của Nguyễn Mạnh C nhưng chưa đủ định lượng để xử lý hình sự nên đã bị Công an thị xã T xử phạt vi phạm hành chính.
Đối với ông Nguyễn Thành X và những người liên quan có hành vi đến nhà của Nguyễn Mạnh C đòi lại số vàng mà C đã mượn có dấu hiệu của tội “Cưỡng đoạt tài sản”, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.
[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T tại phiên tòa về mức hình phạt đối với các bị cáo là không phù hợp nên không có căn cứ chấp nhận.
[9] Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường A H, thị xã T, tỉnh T là nơi cư trú của bị cáo để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được cho hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.
2. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 36 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Cố ý gây thương tích”.
Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự Công an thị xã T, tỉnh T nhận được quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Nguyễn Mạnh C cho Ủy ban nhân dân phường A H, thị xã T, tỉnh T để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường A H, thị xã T, tỉnh T trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 của Luật thi hành án Hình sự.
Miễn khấu trừ thu nhập hàng tháng đối với bị cáo Nguyễn Mạnh C 3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ghi nhận các bị cáo đã bồi thường cho bà Nguyễn Thị L số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng; bồi thường cho bà Nguyễn Thị p số tiền 2.000.000 (Hai triệu) đồng và bồi thường cho bà Nguyễn Thị G số tiền 2.000.000 (Hai triệu) đồng, số tiền bồi thường các bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh T theo Biên lai thu tiền số 0005831, ngày 20-7-2023. Ghi nhận các bị hại không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với: 01 (Một) cây xẻng, cán bằng cây tầm vong dài 1,41m, kích thước lưỡi xẻng (9 x 16) cm; 01 (Một) viên gạch ống, màu vàng nhạt, bị bể, kích thước (18 x 18) cm.
5. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016:
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
6. Báo cho các bị cáo, các bị hại biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 47/2023/HS-ST
Số hiệu: | 47/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về