Bản án về tội cố ý gây thương tích số 416/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 416/2022/HS-ST NGÀY 27/10/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 10 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 385/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 358/2022/QĐXXST-HS ngày13 tháng 9 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Đinh Quốc T; tên gọi khác: không; sinh ngày 12 tháng 8 năm 2003 tại Thái Nguyên; giới tính: nam; trú tại: Xóm L, xã M, huyện H, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Đinh Văn Đ, sinh năm 1970; con bà: Trần Thị T, sinh năm 1978; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ, con: Chưa có;

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân Thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 35276 ngày 15/11/2018 của Công an thành phố N, T bị xử phạt 1.250.000 đồng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”. Hiện Đinh Quốc T chưa nộp phạt.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/5/2022 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ và tên: Đinh Quyết R, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 18 tháng 9 năm 2003 tại Thái Nguyên; giới tính: nam; trú tại: Xóm L, xã M, huyện H, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Đinh Văn Q, sinh năm 1978; con bà: Trần Thị N, sinh năm 1981; bị cáo là con duy nhất trong gia đình;

vợ, con: Chưa có.

- Tiền án: Không.

1 - Tiền sự: 01. Ngày 19/11/2020 bị Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi tàng trữ, cất giấu dao mục đích gây rối trật tự công cộng. Nộp phạt ngày 11/3/2021.

- Nhân thân: Tại bản án số 60/2022/HSST ngày 21/9/2022, Đinh Quyết R bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị xử phạt 16 năm tù.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/6/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

* Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Anh Đào Đại B, sinh năm 1991 (có mặt).

Trú tại: Tổ 1, phường Đ, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1, Anh Đinh Quốc A, sinh năm 1994 Trú tại: Xóm L, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên (có mặt)

2, Bà Trần Thị L, sinh năm 1978 Trú tại: Xóm L, xã M, huyện H, tỉnh Thái Nguyên(có mặt)

3, Bà Ma Thị K, sinh năm 1955 Trú tại: Tổ 1, phường Đ, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên (có mặt)

4, Anh Phạm Văn V, sinh năm 1985 Trú tại: Tổ 12, phường T, thành phố N, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt)

5, Anh Trương Hoài S, sinh năm 1980 Trú tại: Tổ 21, phường P, TP.N, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt)

Người làm chứng:

1, Anh Lê Quang T – sinh năm 1986 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Tổ 12, phường P, TP.N, tỉnh Thái Nguyên

2, Anh Hoàng Văn C – sinh năm 1989 ( có mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: TDP L, thị trấn C, huyện N, tỉnh Thái Nguyên

3, Anh Nguyễn Văn H – sinh năm 1987 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Tổ 23, phường P, TP.N, tỉnh Thái Nguyên

4, Anh Hà Văn M – sinh năm 2000 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Xóm P, xã T, huyện N, tỉnh Thái Nguyên

5, Chị Lê Thị Thu T, sinh năm 1995 (vắng mặt tại phiên tòa) Địa chỉ: Xóm T, xã Quyết R, TP.N, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 00 ngày 24/10/2021, Đinh Quốc T cùng Đinh Quyết R và Đinh Quốc A, sinh năm 1994, HKTT: Xóm L, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên; Ngô Phi L, sinh năm 2001, HKTT: Xóm T 01, xã L, thành phố N; Lê Quang T, sinh năm 1986, HKTT: Tổ 12, phường P, thành phố N; Hoàng Văn C, sinh năm 1989, HKTT: Tổ dân phố L, thị trấn C, huyện N, tỉnh Thái Nguyên; Nguyễn Văn H, sinh năm 1987, HKTT: Tổ 23, phường P, thành phố N; Lê Thị Thu T, sinh năm 1995, HKTT: Xóm T, xã Q, thành phố N; một người nữ giới tên H (chưa rõ họ tên, năm sinh), nhà ở huyện T, tỉnh Thái Nguyên; một nam thanh niên tên Nguyễn Văn D sinh năm 1994, nhà ở huyện N, tỉnh Thái Nguyên đi ăn đêm tại quán T, thuộc tổ 07, phường T, thành phố N. Do thời điểm đó, quán ăn bị mất điện nên các bàn ăn được kê ra khu vực vỉa hè, trước cửa quán T và cửa nhà bên cạnh. Đến khoảng 03 giờ cùng ngày, anh Đào Đại R (tên thường gọi là M) đi ăn đêm cùng một người bạn tên là Đ (không rõ họ tên, địa chỉ) ở quán phở nêu trên. Trong số những người ngồi cùng bàn của Đinh Quốc T, anh R có quen anh T và chị T nên sau khi ăn xong, bạn của anh R về trước. Anh R đi sang bàn của anh T và chị T để mời rượu, giao lưu và nói chuyện. Sau đó, T, C, D, T và H đi về trước. Còn lại T, Quốc A, Đinh Quyết R và H ngồi lại uống rượu cùng Đào Đại R. Quá trình ngồi uống rượu, anh Đào Đại R say rượu nên nói linh tinh và chửi bậy nên Quốc A bảo anh R đi về. Anh R ra lấy xe máy bỏ đi khoảng 15 phút thì quay lại quán T.

Khi anh R vừa ngồi xuống ghế thì T bảo với Đinh Quyết R là “Mày gọi ông ấy ra ngoài kia vả cho phát”, R đồng ý. Đinh Quyết R nói với anh Đào Đại R “Anh ơi ra đây em bảo cái này”. Anh R liền đứng dậy đi theo Đinh Quyết R. Khi đi được khoảng 05 - 06 mét thì Đinh Quyết R dùng tay phải tát một cái vào mặt anh R, anh R liền chạy về phía T. T đứng dậy, tay trái túm tóc anh R, tay phải cầm bát sứ đựng rượu để trên bàn đập một phát vào mặt của anh R. Tiếp đó, tay trái T chuyển sang túm gáy anh R, còn tay phải T tiếp tục cầm bát, đĩa sứ ở trên bàn đập liên tiếp vào vùng mặt và đầu của anh R rồi dùng chân đá vào bụng anh R. Đinh Quyết R thấy vậy liền xông vào dùng tay không đấm 02 phát vào bụng của anh R. Sau đó, Đinh Quốc A can ngăn nên sự việc chấm dứt. Nhóm của T bỏ đi. Anh R chạy ra đường và được người dân đi đường đưa vào Bệnh viện A Thái Nguyên cấp cứu. Đến ngày 29/10/2021, bà Ma Thị K, sinh năm 1955, HKTT: Tổ 01, phường Đ, thành phố N (là mẹ đẻ của anh Đào Đại R) đã đến Công an phường T, thành phố N trình báo.

Hậu quả: Anh Đào Đại R bị vết thương vùng đuôi cung lông mày hai bên, kích thước khoảng 03cm, vết thương gò má trái, kích thước khoảng 07cm; nhiều vết thương vùng đầu, bờ sắc gọn; sốc chấn thương, đa chấn thương, tụ máu dưới da đầu vùng đỉnh phải.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 884/TgT ngày 24 tháng 11 năm 2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Nguyên:

Dấu hiệu chính qua giám định: Hiện tại có 05 sẹo vết thương phần mềm vùng mặt, kích thước nhỏ và 06 sẹo vết thương phần mềm kích thước nhỏ, trong đó:

01%;

- Sẹo vùng đỉnh đầu vết 1, tỷ lệ 01%; - Sẹo vùng đỉnh đầu vết 2, tỷ lệ - Sẹo vùng chẩm vết 1, tỷ lệ 01%; - Sẹo vùng chẩm vết 2, tỷ lệ 01%;

- Sẹo vùng chẩm vết 3, tỷ lệ 01%; - Sẹo vùng đuôi mắt (P), tỷ lệ 03%;

- Sẹo cung mày (T), tỷ lệ 03%; - Sẹo má (P) vết 1, tỷ lệ 03%;

- Sẹo má (P) vết 2, tỷ lệ 03%; - Sẹo má (P) vết 3, tỷ lệ 03%;

- Sẹo thượng vị, tỷ lệ 01%.

Cộng 1% + 1% + 1% + 3% + 3% + 1% + 1% + 1% + 3% +3% + 3% = 19,15% (Làm tròn số là 19%).

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với anh Đào Đại R là 19% (Mươi chín phần trăm). Do tác động của vật cứng có góc cạnh (BL:67) Về phần dân sự: Đinh Quốc T cùng gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường tiền chi phí điều trị cho anh Đào Đại R số tiền 75.000.000 đồng. Bà Ma Thị K là mẹ đẻ của anh Đào Đại R đã nhận đủ số tiền, anh R xác nhận số tiền này đã được bà K sử dụng cho việc điều trị cho anh, số còn lại, bà K đã đưa cho anh hết. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh R không có yêu cầu gì khác đối với bị cáo T cũng như với bà K. Đối với bị cáo Đinh Quyết R, tại phiên tòa, anh R yêu cầu bị cáo Đinh Quyết R bồi thường cho anh một khoản tiền bồi dưỡng sức khỏe. Bị cáo R và bị hại đã thỏa thuận, bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng). Việc bồi thường được thực hiện ngay tại phiên tòa.

Vật chứng vụ án là bát đĩa mà bị cáo T đã sử dụng đập vào bị hại. Những người làm chứng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều xác định số bát đĩa bị đập đã được quét dọn bỏ đi hết, không xác định được số lượng cụ thể.

Tại bản cáo trạng số 388/CT-VKSTPTN ngày10/9/2022của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đinh Quốc T và Đinh Quyết R về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố N tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo: Đinh Quốc T và Đinh Quyết R phạm tội “Cố ý gây thương tích”:

Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm d khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Quốc T từ 36 đến 42 tháng tï.

Đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đinh Quyết R từ 24 đến 30 tháng tï. Đề nghị áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt tại bản án số 60/2022/HSST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, buộc bị cáo R phải chịu hình phạt chung cho cả hai bản án theo quy định.

Vật chứng không thu hồi được nên không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, bị hại không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo T nên không xem xét. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo R và bị hại tại phiên tòa về việc bị cáo R bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đ.

-Về án phí: Đề nghị áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định.

Trong phần tranh luận, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát.

Trong phần lời nói sau cùng, các bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Một số tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện Ngô Phi L có dấu hiệu thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm, cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhân thân, lai lịch của L và tiến hành điều tra nhưng kết quả điều tra xác định, Lkhông có mặt tại địa phương. Tuy nhiên, tại Bản Kết luận điều tra và Cáo trạng đều không đề cập đến nội dung liên quan đến việc có tiếp tục điều tra xem xét hành vi của Ngô Phi L hay không là thiếu sót.

[2]. Về nội dung vụ án:

Khoảng 03 giờ ngày 24/10/2021, tại quán ăn đêm “T” thuộc tổ 07, phường T, thành phố N, trong khi ăn đêm tại quán, mặc dù không quen biết nhau nhưng do anh Đào Đại R say rượu, có lời nói mất kiểm soát nên bị cáo T cho rằng R xúc phạm mình. Do vậy, sau khi anh R đã bỏ đi được một lúc, đến khi quay lại, vừa kịp ngồi vào quán thì Đinh Quốc T bảo Đinh Quyết R gọi anh Đào Đại R ra ngoài để tát anh R. Sau khi Đinh Quyết R gọi anh Đào Đại R ra ngoài và dùng tay phải tát 01 cái vào mặt anh R, anh Đào Đại R chạy lại bàn ăn nơi Đinh Quốc T đang ngồi. Đinh Quốc T liền một tay túm gáy, một tay cầm bát, đĩa bằng sứ đang để trên bàn ăn đập nhiều cái vào vùng đầu, mặt của anh Đào Đại R, vỡ cái này lại đập cái khác, anh R đỡ vào mặt thì T đập vào đầu, anh R đỡ vào đầu thì T đập vào mặt khiến nhiều bát đĩa bị vỡ, còn anh R bị thương. Trong lúc T đánh anh R thì Đinh Quyết R tiếp tục dùng chân tay không đánh đấm vào người anh Đào Đại R. Hậu quả, sau khi bị đánh, anh R bị tổn hại 19% sức khỏe.

Hành vi nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự nên cần phải được xét xử nghiêm minh bằng pháp luật hình sự, có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội để cải tạo giáo dục riêng bị cáo, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung. Do vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đinh Quốc T và Đinh Quyết R về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 134 Bộ luật hình sự quy định như sau:

1. “ Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30%..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm a)...

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này”.

...

[3]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án thấy rằng: Các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, bàn bạc từ trước mà đều cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bị cáo T là người khởi xướng việc đánh bị hại R, T bảo bị cáo R gọi bị hại ra để đánh, sau đó bị cáo T là người gây thương tích chính cho bị hại, còn bị cáo R đã đồng thời dùng chân tay không đánh bị hại nên bị cáo R phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tai điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS cùng với bị cáo T với vai trò đồng phạm, nhưng bị cáo T giữ vai trò cao hơn trong vụ án.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo T không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu, đã từng có hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác, bị Công an thành phố N xử phạt 1.250.000 đồng.

Bị cáo R không có tiền án, nhưng có 01 tiền sự, năm 2021 bị xử phạt hành chính về hành vi cất giấu dao nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng. Mặt khác, bị cáo R còn có nhân thân xấu, ngày 21/9/2022 bị cáo bị TAND tỉnh Thái Nguyên xử phạt 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Sau khi xảy ra sự việc, bị cáo T và gia đình đã tự nguyện bồi thường thương tích cho bị hại, do đó bị cáo T được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho cả hai bị cáo nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo và bị hại không quen biết nhau, không có mâu thuẫn gì với nhau từ trước, mà chỉ xuất phát từ việc ăn đêm tại quán, do bị hại có sang uống rượu giao lưu, sau đó, chỉ vì bị hại say rượu, không làm chủ được các lời nói của mình mà các bị cáo đã lao vào đánh, bị cáo T dùng bát đĩa tại quán phở đánh liên tiếp vào đầu, vào mặt bị hại, cứ vỡ cái này lại lấy cái khác để đập vào đầu và mặt bị hại, gây thương tích 19% cho bị hại. Xét thấy, hành vi của bị cáo T có tính chất côn đồ, do vậy, bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội có tính chất côn đồ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, buộc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bản án số 60/2022/HSST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử đối với bị cáo R đã có hiệu lực pháp luật nên cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo R.

[5]. Vật chứng của vụ án: Không thu hồi được nên không xem xét, giải quyết [6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo T và bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong, bị hại không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo T nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại và bị cáo R tại phiên tòa về việc bị cáo R bồi thường cho bị hại số tiền thiệt hại sức khỏe là 5.000.000đ (năm triệu đồng), đã thực hiện xong.

Đối với số tiền bồi thường cho bị hại mà bà L là mẹ đẻ bị cáo T và anh Quốc A là anh trai bị cáo T, anh Trương Hoài S là bạn của bị cáo T đã bồi thường thay cho bị cáo, tại phiên tòa, bà L, anh Quốc A đều xác định tự nguyện cho bị cáo số tiền này để thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho bị hại và không có yêu cầu gì đối với bị cáo T cũng như đối với gia đình bị hại. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Trương Hoài S cũng thể hiện anh không có yêu cầu gì đối với bị cáo T về số tiền anh đã đi cùng và giúp bị cáo T bồi thường cho bị hại. Đối với bà C là người trực tiếp nhận số tiền mà gia đình bị cáo T bồi thường cho bị hại là anh Đào Đại R, tại phiên tòa, bà C và anh R đều xác định bà C đã sử dụng số tiền này để điều trị và bồi dưỡng cho anh R, còn lại một phần cũng đã giao cho anh R, anh R không có yêu cầu gì. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết mối quan hệ tài sản giữa bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ nêu trên.

Đối với số bát đĩa mà bị cáo T sử dụng để gây thương tích cho bị hại được xác định là bát đĩa của quán T do anh Phạm Văn T là chủ sở hữu, các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng đều xác định số bát đĩa này đã bị đập vỡ, không xác định được cụ thể số lượng bao nhiêu và không thu hồi được. Anh T không có yêu cầu gì đối với các bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Cần tiếp tục tạm giam bị cáo T để đảm bảo thi hành án.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với các bị cáo là có căn cứ chấp nhận, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo.

Trong vụ án này,bị cáo T có nhiều lời khai thể hiện có Ngô Phi L ở địa chỉ xóm T, xã L, huyện B, tỉnh Thái Nguyên là người có mặt và cùng tham gia đánh bị hại bằng bát, đĩa tại quán T. Sau đó, bị cáo T thay đổi lời khai, cho rằng không có L tham gia. Bị hại khai khi bị đánh có khoảng 3-4 người tham gia đánh bị hại, lời khai này của bị hại phù hợp với những lời khai ban đầu của bị cáo T. Quá trình điều tra xác định Ngô Phi L không có mặt tại địa phương, tuy nhiên, cơ quan điều tra không đề cập đến việc có tách ra để xem xét xử lý đối với L trong vụ án khác hay không. Với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra đối hành vi của người có nhân thân lai lịch là Ngô Phi L ở địa chỉ nêu trên để làm rõ L có thực hiện hành vi phạm tội gây thương tích cho anh Đào Đại R hay không, nếu có căn cứ thì xử lý đối với L theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Các bị cáo: Đinh Quốc T và Đinh Quyết R phạm tội “ Cố ý gây thương tích”.

1. Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm d khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Đinh Quốc T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/5/2022.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo T 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Đinh Quyết R 30 (ba mươi) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp với 16 năm tù tại Bản án số 60/2022/HSST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, buộc bị cáo Đinh Quyết R phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 18 (mười tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành bản án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị hại Đào Đại R với bị cáo Đinh Quyết R tại phiên tòa về việc bị cáo R bồi thường cho bị hại số tiền thiệt hại sức khỏe là 5.000.000đ (năm triệu đồng), đã thực hiện xong 5. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Đinh Quốc T và bị cáo Đinh Quyết R, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quancó mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 416/2022/HS-ST

Số hiệu:416/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về