Bản án về tội cố ý gây thương tích số 341/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 341/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 12 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 287/2022/HSST ngày 28 tháng 6 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 326/2022/QĐXXST-HS ngày 13/7/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 685/2022/HSST-QĐ ngày 29/7/2022, đối với bị cáo:

Phạm Nguyễn Sơn D (tên gọi khác: không), sinh năm 1986 tại tỉnh H. Nơi cư trú: Tổ 4, Khu phố 4, phường AH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: công nhân; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Sỹ Ph (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ năm; bị cáo có vợ tên Trương Thị D và có 02 người con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo đang tại ngoại (có mặt).

- Bị hại: Anh Lê Hoàng Q, sinh năm 1997;

Hộ khẩu thường trú: Ấp PA, xã HP, huyện MT, tỉnh S; Địa chỉ tạm trú: Tổ 5, Khu phố 4, phường AH, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai; Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Biên Hoà trong vụ án khác (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Anh Lê Hoàng L, sinh năm 1994 (vắng mặt).

+ Ông Lương Văn T, sinh nắm 1956 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 15 phút, ngày 29/10/2021, Phạm Nguyễn Sơn D đang đứng trước xưởng chế biến hạt điều tại số tổ 3, khu phố 4, phường AH, thành phố BH thì Lê Hoàng Q, sinh năm 1997 đi cùng anh Lê Hoàng L, sinh năm 1994 (anh trai Q) cùng ngụ tại ấp PA, xã HP, huyện MT, tỉnh S đến hỏi thăm về người bạn của anh L thì hai bên xảy ra lời qua tiếng lại. D bực tức, chạy xe mô tô về nhà mẹ D (cách khoảng 200m), lấy một con dao dài 40cm, lưỡi dài 30cm, rộng 08cm, cán gỗ dài 10cm rồi quay lại chỗ L và Q đang đứng. D dơ dao lên và nói “tụi mày có biết tao là ai không” rồi cầm dao đuổi anh L chạy khoảng 10m thì dừng lại, mục đích hù dọa. Thấy vậy, Q nhặt một miếng gạch men vỡ cầm lên chĩa về hướng D để hù dọa. D cầm dao quay lại đuổi Q chạy khoảng 7m thì dừng lại.

Bực tức vì bị D dùng dao dí đuổi, Q lên xe mô tô đi về nhà (cách đó khoảng 01km) lấy 01 dao tự chế dài 53cm, lưỡi dài 40cm, rộng 05cm, cán gỗ dài 13cm và 01 dao tự chế dài 49cm, lưỡi dài 38cm, rộng 04cm, cán dao bọc ống nhựa dài 11cm và điều khiển xe quay lại để đánh nhau với D.

Khi thấy Q hai tay cầm 02 dao chạy tới, D cũng chạy vào phòng trọ của D cách đó khoảng 10m lấy thêm một dao làm bếp dài 34cm, lưỡi dao dài 19cm, rộng 09cm, cán dao dài 15cm rồi tiến lại gần chỗ Q đang đứng, hai bên tiếp tục chửi và thách thức đánh nhau. Q cầm dao chém vào tấm bạt màu xanh bên cạnh phía trước phòng trọ D. D thấy vậy nên hai tay cầm 02 dao xông tới chém nhau với Q. D giơ dao tay phải lên chém một nhát trúng vào mặt của Q. Lúc này Q cũng vung dao lên chém về phía D nhiều nhát, trong đó có hai nhát trúng vào cánh tay trái của D gây thương tích. Sau đó Q loạng choạng bị té ngã xuống đường, D hai tay dơ hai dao quơ chém nhiều cái về phía Q nhưng không trúng.

Thấy D bị té ngã nên anh Lê Hoàng L (anh ruột của Q) chạy vào ôm và giằng tay dao của D từ phía sau, trong khi giằng co dao của D văng trúng vào mặt anh L gây chảy máu. D bị anh L vật ngã xuống đất, hai bên giằng co thì được mọi người vào can ngăn. Sau đó D, Q và anh L được mọi người đưa đi bệnh viện Đa khoa Đồng Nai cấp cứu. Công an phường An Hòa lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 27/02/2022, Lê Hoàng Q có đơn yêu cầu khởi tố vụ án (bút lục 60).

- Vật chứng vụ án:

+ Thu giữ của Phạm Nguyễn Sơn D: 01 dao dài 40cm, lưỡi dài 30cm, rộng 08cm, cán gỗ dài 10cm; 01 dao dài 34cm, lưỡi dao dài 19cm, rộng 09cm, cán dao dài 15cm.

+ Thu giữ của Lê Hoàng Q: 01 dao tự chế dài 53cm, lưỡi dài 40cm, rộng 05cm, cán gỗ dài 13cm và 01 dao tự chế dài 49cm, lưỡi dài 38cm, rộng 04cm, cán dao bọc ống nhựa dài 11cm.

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Nguyễn Sơn D khai nhận hành vi phạm tội như trên.

(Biên bản sự việc, biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, bút lục 01- 04; Lời khai bị can, bút lục số: 39-47; Lời khai bị hại, bút lục 50-61; Lời khai nhân chứng, bút lục số: 73-82, 84-86).

Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 0898/TgT/2021 ngày 17/12/2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Đồng Nai đối với Lê Hoàng Q như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám đinh:

- Sẹo trán trái (đuôi cung mày trái) hình chân rết kích thước 2,2x0,6cm.

Tỷ lệ: 06% (Sáu phần trăm) 2. Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng Bộ y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định Pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lê Hoàng Q- 1997 áp dụng theo thông tư là: : 06% (Sáu phần trăm).

3. Kết luận khác: Vật gây thương tích: Vật sắc (Bút lục số: 05-07) Tại Kết luận giám định pháp y về thương tích số 0824/TgT/2021 ngày 06/12/2021 của Giám định viên Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Đồng Nai kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Phạm Nguyễn Sơn D - 1986 áp dụng theo phương pháp cộng tại thông tư là: 42% (Bốn mươi hai phần trăm), (Bút lục số: 93-95).

Về trách nhiệm dân sự: Lê Hoàng Q không yêu cầu Phạm Nguyễn Sơn D bồi thường chi phí điều trị. (Bút lục số: 61) Tại bản cáo trạng số 305/CT/VKSBH ngày 23/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố ra trước Tòa án nhân dân thành phố B để xét xử đối với bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là bộ đội xuất ngũ có giấy khen của Uỷ ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai; cha đẻ bị cáo là ông Phạm Sỹ Ph được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; chưa có tiền án, tiền sự; đang nuôi con nhỏ ăn học; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D từ 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) tháng nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Đối với Lê Hoàng Q có hành vi đánh gây thương tích cho Phạm Nguyễn Sơn D với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 42% (Bốn mươi hai phần trăm), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Q và tách ra để điều tra xử lý riêng trong vụ án khác theo quy định của pháp luật (Bút lục 91-95).

Anh Lê Hoàng L trong quá trình vào can ngăn Phạm Nguyễn Sơn D và Lê Hoàng Q đánh nhau bị dao của D văng trúng mặt gây thương tích nhẹ. Anh L không yêu cầu giám định và không yêu cầu khởi tố vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B không xem xét.

Ý kiến của bị cáo tại phiên toà: Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo để làm việc nuôi các con nhỏ ăn học.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đều đảm bảo đúng pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng, kết luận giám định thương tích và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 19 giờ 15 phút, ngày 29/10/2021, tại đoạn đường nội bộ thuộc tổ 4, khu phố 4, phường An Hòa, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, do mâu thuẫn trong giao tiếp nên Phạm Nguyễn Sơn D và Lê Hoàng Q chửi bới và thách thức đánh nhau. Khi hai bên đánh nhau thì Phạm Nguyễn Sơn D sử dụng 01 dao dài 40cm, lưỡi dài 30cm, rộng 08cm, cán gỗ dài 10cm chém một nhát trúng vào mặt của Q gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 06% (Sáu phần trăm). Lê Hoàng Q sử dụng 01 dao tự chế dài 53cm, lưỡi dài 40cm, rộng 05cm, cán gỗ dài 13cm và 01 dao tự chế dài 49cm, lưỡi dài 38cm, rộng 04cm, cán dao bọc ống nhựa dài 11cm chém hai nhát trúng vào cánh tay trái của D gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 42% (Bốn mươi hai phần trăm). Ngày 27/02/2022, Lê Hoàng Q có đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị án tại địa phương. Do đó, bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo là bộ đội xuất ngũ được Uỷ ban nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai tặng Giấy khen Hoàn thành tốt nghĩa vụ quân sự; cha đẻ bị cáo là ông Phạm Sỹ Ph được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhất, nhì, ba; bị cáo đang nuôi con nhỏ ăn học; hiện tại bị cáo bị tổn thương cơ thể do thương tích mà bị hại gây nên là 42%. Đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu nên Hội đồng xét xử thấy rằng áp dụng quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/05/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.

Tuyên bố bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Phạm Nguyễn Sơn D cho Ủy ban nhân dân phường An Hoà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai là nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 dao dài 40cm, lưỡi dài 30cm, rộng 08cm, cán gỗ dài 10cm; 01 dao dài 34cm, lưỡi dao dài 19cm, rộng 09cm, cán dao dài 15cm;

01 dao tự chế dài 53cm, lưỡi dài 40cm, rộng 05cm, cán gỗ dài 13cm và 01 dao tự chế dài 49cm, lưỡi dài 38cm, rộng 04cm, cán dao bọc ống nhựa dài 11cm (theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/7/2022 giữa Công an thành phố Biên Hoà và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 341/2022/HS-ST

Số hiệu:341/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về