Bản án về tội cố ý gây thương tích số 301/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 301/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 280/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2022/QĐXXST-HS ngày 16/9/2022, đối với bị cáo:

Đào Thanh T, sinh năm 1993, tại tỉnh An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A; nghề nghiệp: phụ hồ; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nam; con ông Đào Thanh S (đã chết) và bà Lê Kiêm P, sinh năm 1972; bị cáo có 03 em ruột, lớn sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2022 cho đến nay. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Nhân thân: Ngày 16/12/2009 Chủ tịch Ủy ban nhân huyện C, tỉnh A ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 24 tháng. Đã chấp hành xong vào ngày 14/4/2013.

- Bị hại:

+ Ông Lô Văn S1, sinh năm 1977; thường trú: Xóm B, xã Y1, huyện T, tỉnh N.

Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

+ Ông Lương Văn P, sinh năm 1977; thường trú: Bản Y, xã Y1, huyện T, tỉnh N. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lê Kiêm P, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp B, xã B, huyện C, tỉnh A. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người chứng kiến: Ông Trần Hữu H, sinh năm 1984; địa chỉ: 57/23, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Lô Văn S1, anh Lương Văn P và Đào Thanh T làm phụ hồ chung, quen biết nhau được khoảng 01 tuần và sống cùng nhau tại quán cơm “Bạn Hữu” có địa chỉ tại Đường D5, Khu phố T, phường T1, thành phố D, tỉnh B.

Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 03/4/2022, anh S1, anh P và T đi uống rượu với nhau tại quán không rõ tên thuộc khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B. Sau đó, anh S1 tính tiền đi về trước còn T và anh P tiếp tục uống rượu. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, sau khi nhậu xong T và anh P đi về quán cơm “Bạn Hữu” nằm trên đường D5, khu dân cư Biconsi, thuộc khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B để nghỉ. Anh P say nên nằm ngủ trên võng. Lúc này, T nhìn thấy anh S1 đang nằm trên võng ngủ nên T gọi anh S1 dậy nói chuyện. T hỏi anh S1 lý do vì sao đi uống rượu chung mà bỏ về trước. Lúc này, T dùng tay cầm lấy ghế nhựa màu xanh đánh vào vùng đầu của anh S1, anh S1 đưa tay lên đỡ làm gãy tay ghế, thấy vậy anh S1 bỏ chạy vào trong quán cơm, ngồi xuống và ôm đầu thì T đuổi theo, cầm theo tay ghế nhựa bị gãy và đấm hai đến ba cái vào đầu, mặt của anh S1. Tiếp đó, T đi đến chỗ anh P nằm và dùng tay cầm tay ghế đấm vào mặt, đầu và cổ của anh P bốn cái. Lúc này, Công an phường Tân Bình đi tuần tra phát hiện sự việc nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An xử lý.

Vật chứng thu giữ: + 01 ghế nhựa màu xanh đã bị gãy, bể;

+ 05 mảnh nhựa màu xanh.

+ 01 USB ghi lại sự việc T đánh anh P (lưu trong hồ sơ vụ án).

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0361 ngày 12/4/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của anh Lương Văn P như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

Vết thương gò má trái dài 08 cm, rộng nhất 01 cm, hẹp nhất 0,2 cm. Tỉ lệ 09%. Vết thương cổ kích thước 04 x 03 cm. Tỉ lệ 04%.

- Kết luận: Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng bộ y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lương Văn P áp dụng theo phương pháp cộng lùi tại thông tư là 13 %.

- Kết luận khác: Không.

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0364 ngày 12/4/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của anh Lô Văn S1 như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Phần vết thương trán phải nằm trong chân tóc kích thước 03 x 0,2 cm. Tỷ lệ:

01%.

03%.

03%.

+ Phần vết thương trán phải nằm ngoài chân tóc kích thước 02 x 0,2 cm. Tỷ lệ:

+ vết thương thái dương phải kích thước 06 x 0,2 cm. Tỉ lệ 02%.

+ Mất da nông mặt sau 1/3 dưới cẳng tay phải kích thước 06 x 03 cm. Tỷ lệ - Kết luận: Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng bộ y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lô Văn S1 áp dụng theo phương pháp cộng lùi tại thông tư là 09 %.

- Kết luận khác:

+ Vật gây thương tích :

Thương tích đầu, cổ và cẳng tay phải: Vật tày có cạnh. Chấn thương mắt phải và gò má phải: Vật tày.

- Đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra trưng cầu giám đinh bổ sung sau khi vết sây sát da vùng cổ để lại sẹo hoặc biến đổi sắc tố da (nếu có).

* Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0681/TgT/2022 ngày 24/06/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Đồng Nai kết luận thương tích của anh Lô Văn S1 như sau:

- Dấu hiệu chính qua giám định:

+ Đã được Trung tâm pháp Y Đồng Nai giám định kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể là 09% tại Bản kết luận số 0364/TgT ngày 12/04/2022.

+ Phần bổ sung: Vết biến đổi sắc tố da vùng cổ phải. Tỷ lệ: 01%.

- Căn cứ thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ trưởng bộ y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lô Văn S1 áp dụng theo phương pháp cộng lùi tại thông tư là:10%.

- Kết luận khác: Không.

* Bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ số 0682/TgT/2022 ngày 30/06/2022 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Đồng Nai đối với nạn nhân Lương Văn P, mục IV phần kết luận nêu:

* Dấu hiệu chính qua giám định hồ sơ bệnh án và tài liệu hiện có:

- Vào ngày 03/4/2022 nạn nhân Lương Văn P bị đánh gây thương tích.

- Tổn thương chính: Vết thương gò má trái dài 08 cm, rộng nhất 01 cm, hẹp nhất 0,2 cm. Vết thương cổ kích thước 04x0,3 cm.

*Kết luận theo nội dung trưng cầu, yêu cầu giám định:

Cơ chế hình thành vết thương của Lương Văn P - sinh năm: 1977 - Vết thương gò má trái dài 08 cm, rộng nhất 01 cm, hẹp nhất 0,2 cm. Tổn thương này do vật tày hoặc vật tày có cạnh tác động lực đủ mạnh vào vùng gò má trái theo hướng từ trái qua phải, chếch từ sau ra trước hoặc theo hướng song song bề mặt của da và từ trên xuống dưới gây nên.

- Vết thương cổ kích thước 04x0,3 cm. Tổn thương này do vật tày hoặc vật tày có cạnh tác động lực vừa đủ vào vùng cổ trước - trái, hướng từ trái qua phải, từ trước ra sau hoặc trượt bề mặt của da gây nên.

Tại Bản cáo trạng số 309/CT-VKS-DA ngày 08 tháng 9 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Đào Thanh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Đào Thanh T mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Lê Kiêm P ( mẹ của Đào Thanh T) đã bồi thường cho anh Lương Văn P và anh Lô Văn S1 số tiền 1.000.000 đồng/ người, anh P và anh S1 không yêu cầu Đào Thanh T bồi thường gì khác nên về trách nhiệm dân sự không đề cập đến. Bà Phượng không yêu cầu T trả lại cho bà số tiền này.

Về xử lý vật chứng: 01 ghế nhựa màu xanh đã bị gãy và 05 mảnh nhựa màu xanh Đào Thanh T sử dụng để gây thương tích cho anh Lương Văn P và anh Lô Văn S1, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ. 01 USB ghi lại sự việc T đánh anh P (lưu trong hồ sơ vụ án).

Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị cáo nêu ý kiến: xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt bị hại nêu ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, về trách nhiệm dân sự không đặt ra. Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Lê Kiêm P đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đối với số tiền bà P đã bồi thường cho các bị hại, không yêu cầu bị cáo trả lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo: Lúc 21 giờ 00 phút ngày 03/4/2022, tại quán “Bạn Hữu” địa chỉ tại đường D5, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B, Đào Thanh T là hung khí nguy hiểm đánh vào vùng đầu, mặt, cổ của anh Lương Văn P gây thương tích 13% và anh Lô Văn S1 gây thương tích 10%. Xét, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người chứng kiến tại Cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như Biên bản xác định địa điểm, Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0361 ngày 12/4/2022 và số 0364 ngày 12/4/2022 và 0681/TgT/2022 ngày 24/06/2022 và số 0682/TgT/2022 ngày 30/06/2022 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai, trích xuất dữ liệu hình ảnh. Như vậy, hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 309/CT-VKS-A ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[7] Về hình phạt: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 06 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của các bị hại được bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[8] Xử lý vật chứng:

- Đối với 01 ghế nhựa màu xanh đã bị gãy, bể và 05 mảnh nhựa màu xanh là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và tang vật của vụ án, không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 USB hiệu Tosiba màu trắng 08 GB ghi lại hành vi phạm tội của bị cáo cần lưu tại hồ sơ vụ án.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[10] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra đối với bị cáo về tội danh, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân, xử lý vật chứng và việc trách nhiệm dân sự là phù hợp; Riêng mức hình phạt đối với bị cáo có phần nghiêm khắc, do vậy Hội đồng xét xử xử phạt mức hình phạt bị cáo thấp hơn mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đào Thanh T phạm tội cố ý gây thương tích. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đào Thanh T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 ghế nhựa màu xanh đã bị gãy, bể và 05 mảnh nhựa màu xanh.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/9/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ an với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

- Lưu hồ sơ vụ án: 01 USB hiệu Tosiba màu trắng 08 GB.

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Đào Thanh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 301/2022/HS-ST

Số hiệu:301/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về