Bản án về tội cố ý gây thương tích số 275/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 275/2022/HS-PT NGÀY 18/07/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 154/2022/TLPT-HS ngày 15 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 10 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú.

- Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Thị Tuyết M, sinh năm 1988, tại Thành phố H;

Nơi cư trú: Số 15, B, khu phố 5, phường T, quận B, Thành phố H; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Minh H (không xác định được năm sinh) và bà Trần Ngọc P, sinh năm 1964 (đã chết); chồng: Dương Minh Đ, sinh năm 1983 (đã ly hôn), con: Có 01 sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không Bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2022. Bị cáo cáo mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Thị Tuyết M và anh Dương Minh Đ, trú tại ấp 3, xã P, huyện T1, tỉnh Đ kết hôn và chung sống từ năm 2010 cho đến tháng 6/2020 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, anh Dương Minh Đ đã có hành vi đánh Huỳnh Thị Tuyết M nên đã bị Công an xã P, huyện T1 ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Sau đó, Huỳnh Thị Tuyết M làm đơn xin ly hôn và được Tòa án huyện Tân Phú thụ lý giải quyết việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vào sáng ngày 28/8/2020, Huỳnh Thị Tuyết M đi đến chợ 5 rưỡi thuộc xã P để mua thực phẩm thì nghe người dân nói anh Đ đe dọa xâm phạm sức khỏe của Huỳnh Thị Tuyết M nếu có quyết định giải quyết ly hôn của Tòa án, nên Huỳnh Thị Tuyết m đi đến nhà bà Lê Thị b (là mẹ của Đ) ở ấp 3, xã P gặp, nhờ bà B đứng ra khuyên bảo Đ không được có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của Huỳnh Thị Tuyết M, đồng thời Huỳnh Thị Tuyết M có lời lẽ đe dọa nếu bà B không đứng ra can thiệp thì M sẽ dùng vũ lực đối với chị ruột của Dương Minh Đ đang sống tại Thành phố H, được bà B đồng ý.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 29/8/2020, Huỳnh Thị Tuyết M lấy 01 con dao dài 21,5cm, cán màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại sắc, nhọn có kích thước 11x02cm, trên lưỡi dao có dòng chữ Kiwibran made in Thailand bỏ vào túi vải màu đỏ hiệu Fila rồi điều khiển xe mô tô biển số 54N3-5190 đi đến nhà bà B. Khi đến nơi, Huỳnh Thị Tuyết M gặp, nói chuyện với bà B thì giữa hai người phát sinh mâu thuẫn, cho rằng Huỳnh Thị Tuyết M là con dâu nhưng có lời lẽ xúc phạm nên bà B cầm 01 cục đá kích thước 16x16,6x5,5cm với mục đích đe dọa đánh Huỳnh Thị Tuyết M nhưng bà B không đánh mà vứt cục đá xuống sân nhà. Huỳnh Thị Tuyết M đi ra lấy xe mô tô đi về thì anh Đ từ trong nhà đi ra dùng tay đánh vào mặt, nắm tóc kéo Huỳnh Thị Tuyết M ngã xuống đất, Huỳnh Thị Tuyết M lấy con dao trong túi vải, tay phải cầm dao đâm 01 nhát vào đùi chân trái của anh Đ, được các anh Hoàng Văn T, Trần Thanh N đi đến can ngăn đưa anh Đ vào nhà. Cùng lúc, bà B đi đến can ngăn thì bị Huỳnh Thị Tuyết M tay phải cầm 01 con dao dài 21,5cm, cán màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại sắc, nhọn có kích thước 11x02cm, trên lưỡi dao có dòng chữ Kiwibran made in Thailand đâm 01 nhát vào ngực trái, chém 07 nhát vào khuỷu tay trái, mu bàn tay trái, vú phải, lưng trái và lưng phải của bà B. Sau đó, bà B, anh Đ được đưa đi chữa trị thương tích. Ngày 13/10/2020, anh Đ làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án đối với Huỳnh Thị Tuyết M.

Căn cứ kết luận giám định pháp y về thương tích số 0848/TgT/2020 ngày 09/9/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận thương tích của bà B, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Lê Thị B – 1957 áp dụng theo phương pháp cộng tại Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế là 26%. Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.

Căn cứ kết luận giám định pháp y về thương tích số 0845/TgT/2020 ngày 09/9/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận thương tích của anh Dương Minh Đ, tỷ lệ tổn thương cơ thể do dương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Dương Minh Đ là 01%. Vật gây thương tích: Vật sắc nhọn.

2. Về vật chứng của vụ án:

01 con dao dài 21,5cm, cán màu vàng, lưỡi dao bằng kim loại sắc, nhọn có kích thước 11x02cm, trên lưỡi dao có dòng chữ Kiwibran made in Thailand;

01 túi vải, loại túi bao tử màu đỏ có in chữ Fila của Huỳnh Thị Tuyết M;

01 cục đá kích thước 16x16,6x5,5cm màu xám;

01 cái ghế gỗ tựa lưng, kích thước 32x25cm, cao 84cm của bà Lê Thị B;

01 nón bảo hiểm màu hồng, 02 chiếc dép màu hồng, cỡ dép số 09, 01 xe mô tô biển số 54N3-5190 và 01 giấy đăng ký xe của Huỳnh Thị Tuyết M.

3. Quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 10 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú đã áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt: bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M 02 (hai) năm 6 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

4. Kháng cáo:

Ngày 10/3/2022, bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo M giữ nguyên kháng cáo, tiếp tục đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

5. Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:

Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” đồng thời xử phạt bị cáo mức án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó kháng cáo của bị cáo không có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với tài liệu thể hiện bị hại bà B có đơn xin không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo M thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, cụ thể: Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 29/8/2020, tại nhà bà Lê Thị B thuộc ấp 3, xã T, huyện T1, tỉnh Đ, do có mâu thuẫn với nhau trong sinh hoạt, bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M đã có hành vi sử dụng 01 con dao dài 21,5cm, lưỡi dao bằng kim loại sắc, nhọn có kích thước 11x02cm, trên lưỡi dao có dòng chữ Kiwibran made in Thailand, cán dao bằng nhựa màu vàng đâm 01 nhát vào ngực trái, chém 07 nhát vào khuỷu tay trái, mu bàn tay trái, lưng trái và lưng phải của bà Lê Thị B gây thương tích với tỷ lệ 26%.

Với hành vi phạm tội nêu trên, bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã không những xâm phạm sức khỏe người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo đã đâm 01 nhát vào ngực trái, chém 07 nhát vào khuỷu tay trái, mu bàn tay trái, lưng trái và lưng phải của bị hại bà Lê Thị B, hậu quả đã gây thương tích với tỷ lệ 26% là nghiêm trọng, thể hiện sự xem thường tính mạng sức khỏe người khác, xem thường pháp luật. Do đó, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm 06 tháng tù là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa.

Tại cấp phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa người nhà bị cáo cung cấp tài liệu là đơn xin không truy cứu trách nhiệm hình sự của bị hại bà B đối với bị cáo. Qua xem xét, đánh giá, Hội đồng xét xử nhận thấy đơn trên không có xác nhận của địa phương nên không có căn cứ để xác định đơn là của bị hại bà B. Như vậy, tại cấp phúc thẩm bị cáo đã không cung cấp được chứng cứ nào mới để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét. Mặc khác, khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo. Do đó không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 10 tháng 03 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú.

2. Căn cứ điểm a, d khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thị Tuyết M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 19/01/2022.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 275/2022/HS-PT

Số hiệu:275/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về