Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG KHÊ, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, kết nối với điểm cầu thành phần tại Trại giam Công an tỉnh Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Đức T; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện H, tỉnh H. Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công Nhân; Trình độ văn hóa: 11/12; con ông: Cao Xuân D, sinh năm 1963 và con bà: Lê Thị H, sinh năm 1963; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị can bị bắt truy nã, tạm giữ từ ngày 17/11/2022 đến ngày 23/11/2022 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh.

- Bị hại:

+ Anh Dương Văn Đ, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 6, xã P, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do (hiện đang chấp hành án tại Trại giam Xuân Hà). Vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Anh T, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt.

+ Anh Lê Hữu T, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn 5, xã P, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Lao động tự do. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị H, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn T, xã L, huyện H, tỉnh H; nghề nghiệp: Làm ruộng. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Nguyễn Viết Q, sinh năm: 1996 (có mặt); Lê Hồng Q, sinh năm 1990 (vắng mặt); đều địa chỉ: Thôn 7, xã H, huyện H, tỉnh H.

+ Đinh Ngọc T, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn 7, xã H, huyện H, tỉnh H (vắng mặt).

+ Cao Ngọc S, sinh năm 1990, Nguyễn Văn L, sinh năm 1992, Đinh Văn N, sinh năm 1995; đều địa chỉ: Thôn 8, xã H, huyện H, tỉnh H (vắng mặt).

+ Đinh Văn C, sinh năm 1993, Đinh Tuấn V, sinh năm 1994; đều địa chỉ: Thôn 5, xã H, huyện H, tỉnh H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ ngày 27/11/2013 đến ngày 10/02/2014, Cao Đức T đã 03 lần thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 19 giờ ngày 27/11/2013, Cao Đức T điều khiển xe mô tô đi từ nhà đến cây xăng ngã tư Hương Trà thuộc thôn Tân H, xã H, huyện H để đổ xăng. Sau khi đổ xăng xong, T thấy bên kia đường, gần quán Karaoke Thành Nga có đông người tụ tập, trong đó có Đinh Văn C là người quen của T đang gây gổ với Dương Văn Đ nên T dựng xe bên đường rồi đi bộ lại xem. Nhìn thấy T, C nói “Lại đây đánh thằng này cho anh với”, T đồng ý rồi đi lại đứng gần C. Lúc này C đang cầm một tuýp sắt và một rựa mồng còn Dương Văn Đ đang cầm một rựa mồng, hai bên cãi cọ, chửi bới, thách thức nhau. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Đinh Tuấn V đi từ hướng quán Karaoke Thành Nga đến, trên tay cầm một con dao và nói “Ai thách thức bạn tao” rồi nói với Dương Văn Đ “Mày láo”. Nói xong V cầm dao chém một nhát vào vùng cổ bên trái của Đ còn C hô to “Chém chết tao đi tù”. T thấy vậy liền xông vào dùng tay chân đấm, đá vào người Đ. Đ bỏ chạy thì C cầm tuýp sắt, V cầm dao cùng T đuổi đánh Đ. Khi đuổi kịp Đ, C dùng tuýp sắt đánh trúng vào đầu Đ. Hậu quả Dương Văn Đ bị thương được đưa đến Bệnh viện đa khoa Nghệ An cấp cứu điều trị từ ngày 28/11/2013 đến ngày 12/12/2013 ra viện về nhà tự điều trị.

Kết luận giám định pháp y về thương tịch số 06/TTPYHT ngày 06/01/2014. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe hiện tại của anh Dương Văn Đ là 36,3%.

Lần thứ hai: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 02/01/2014, Cao Đức T cùng với Nguyễn Viết Q, Đinh Ngọc T, Cao Ngọc S, Đinh Hữu G, Nguyễn Đình B, Nguyễn Viết T ngồi uống rượu tại quán Hoa Linh ở thôn Tân Hương, xã Hương Trà, huyện Hương Khê. Tại quán lúc này có một nhóm nam thanh niên đến ngồi ở sân uống rượu cạnh bàn nhóm của T. Hai nhóm có giao lưu uống rượu qua lại với nhau. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Viết Q đi xuống khu vực bếp của quán thì gặp Nguyễn Anh T là một trong số những người ngồi uống rượu ở bàn bên cạnh. Khi gặp Q, T hỏi “Thằng B đi đâu?”, Q trả lời “Không biết”. Do bực tức thái độ của T nên Q rủ Cao Đức T đánh Nguyễn Anh T. T đồng ý. Đến khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, Nguyễn Viết Q thanh toán tiền rồi cùng Cao Đức T và Đinh Ngọc T đi ra trước cổng quán. Q chỉ cho T và T biết rõ vị trí Nguyễn Anh T ngồi đồng thời bảo T đi về lấy hung khí. T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave không đeo biển kiểm soát của T chở T về nhà T lấy 04 thanh kiếm. Sau khi quay lại quán, T thấy Q và Cao Ngọc S đang đứng ngoài đường, T đưa cho Q 02 thanh kiếm, đưa cho T 01 thanh kiếm, còn T cầm 01 thanh kiếm. Q đưa cho Cao Ngọc S 01 thanh kiếm rồi dẫn đầu chạy vào quán, T và T cầm kiếm đi theo Q còn Cao Ngọc S cầm kiếm nhưng đứng ở ngoài đường, không đi vào. Khi vào, Q dùng kiếm chém Nguyễn Anh T liên tiếp nhiều nhát, T bỏ chạy vào nhà bếp, Q đuổi theo thì T ôm Q đè xuống đất. Lúc này T và T xông vào dùng kiếm chém liền tiếp nhiều nhát vào người T. T bỏ chạy ra phía sau nhà bếp. T và Q đuổi theo T ra phía sau nhà bếp nhưng không kịp nên dừng lại. Hậu quả, Nguyễn Anh T bị thương được đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện Hương Khê cấp cứu, điều trị từ ngày 02/01/2014 đến ngày 10/01/2014 ra viện về nhà tự điều trị.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 17/TTPYHT ngày 25/02/2014. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe hiện tại của anh Nguyễn Anh T là 11,5%.

Lần thứ ba: Vào khoảng 20 giờ 00 ngày 10/02/2014 Cao Đức T cùng Nguyễn Viết Q, Nguyễn Văn L, Lê Hồng Q và Đinh Văn N đều trú tại xã H đi chơi ở ngã ba xóm 8 xã H. Quá trình chơi ở đây Cao Đức T biết Lê Hữu T, hiện đang chơi tại nhà chị Nguyễn Thị T ở xóm 7, xã H. Do có mâu thuẫn từ trước với T nên T bàn với Q, L, Q chặn đường đánh T, Q, L, Q đồng ý. Sau đó T đi vào nhà Nguyễn Viết X ở xóm 8, xã H lấy 02 thanh kiếm tự chế do T đã cất giấu tại đây từ trước. T cầm 01 thanh kiếm, đưa cho Q 01 thanh kiếm rồi cả nhóm chờ tại ngã ba xóm 8, xã H. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Lê Hữu T điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Văn T, đi từ ngã ba xóm 8 xã H ra đường Quốc lộ 15. Phát hiện T vừa đi qua, T bảo L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RS biển kiểm soát 38B1-X đuổi theo, thấy T lên xe thì Đinh Văn N cũng lên xe ngồi ở giữa còn Cao Đức T ngồi sau cầm kiếm; Lê Hồng Q điều khiển xe mô tô Dream biển kiểm soát 38N2-X chở Nguyễn Viết Q ngồi sau cầm kiếm đuổi theo T. Phát hiện có người đuổi theo nên T lái xe bỏ chạy, khi đến đoạn đường trước cổng nhà thờ Tràng Lưu thuộc xã Lộc Yên thì xe mô tô của T bị ngã xuống đường. Lúc này Lý dừng xe, T cầm kiếm chạy đến chém liên tiếp 02 nhát, một nhát trúng đầu gối trái, một nhát trúng bàn tay trái T, thấy đánh nhau Đinh văn N bỏ chạy hướng ngược lại về xã H. Lúc này Q điều khiển xe mô tô chở Q đến, Quốc xuống xe cầm kiếm chém trúng vào vùng cổ bên trái và vùng trán của T. Nghe ồn ào nên một số người dân ra xem thì Q lái xe chở T, L lái xe về, khi L qua cổng nhà thờ Tràng Lưu thì gặp N nên chở về còn Q chạy bộ đến ngã ba Lộc Yên sau đó đi về nhà. Anh Lê Hữu T sau khi bị chém thì được người nhà đưa đi cấp cứu, điều trị tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức từ ngày 11/02/2014 đến ngày 14/02/2014; điều trị tại Bệnh viện đa khoa huyện Hương Khê từ ngày 17/02/2014 đến ngày 29/02/2014 thì ra viện về nhà tự điều trị.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 28/TTPYHT ngày 17/3/2014. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe hiện tại của anh Lê Hữu T là 33%.

Lần gây thương tích cho anh Dương Văn Đ vào ngày 27/11/2013, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê đã khởi tố các bị can Đinh Văn C, Đinh Tuấn V, Cao Đức T. Ngày 13/8/2014, Tòa án nhân dân huyện Hương Khê đã tuyên các bị cáo Đinh Văn C, Đinh Tuấn V phạm tội Cố ý gây thương tích quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 theo bản án số 28/2014/HSST.

Lần gây thương tích cho anh Nguyễn Anh T vào ngày 02/01/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê đã khởi tố các bị can Nguyễn Viết Q, Đinh Ngọc T, Cao Đức T. Ngày 28/7/2014, Tòa án nhân dân huyện Hương Khê đã tuyên các bị cáo Nguyễn Viết Q, Đinh Ngọc T phạm tội Cố ý gây thương tích quy định tại khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 theo bản án số 25/2014/HSST.

Lần gây thương tích cho anh Lê Hữu T vào ngày 10/02/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê đã khởi tố các bị can Cao Đức T, Nguyễn Viết Q, Nguyễn Văn L, Lê Hồng Q. Ngày 30/9/2014, Tòa án nhân dân huyện Hương Khê đã tuyên các bị cáo Nguyễn Viết Q, Nguyễn Văn L, Lê Hồng Q phạm tội Cố ý gây thương tích quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 theo bản án số 40/2014/HSST.

Riêng Cao Đức T sau khi thực hiện các hành vi cố ý gây thương tích đã bỏ trốn. Ngày 26/4/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Hương Khê đã ra Quyết định truy nã số 03 đối với Cao Đức T. Đến ngày 17/11/2022, Cao Đức T bị bắt khi đang lẩn trốn, làm công nhân trên địa bàn khu công nghiệp Minh Hưng thuộc phường Minh Hưng, thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước .

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu đồ vật; xử lý vật chứng: Các đồ vật, tài liệu, vật chứng đã được xử lý trong quá trình xét xử các vụ án với các đồng phạm của Cao Đức T cụ thể: theo bản án số 28/2014/HSST ngày 13/8/2014; bản án số 25/2014/HSST ngày 28/7/2014; bản án số 40/2014/HSST ngày 30/9/2014 của Tòa án nhân dân huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh đã có hiệu lực pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Cao Đức T đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại anh Dương Văn Đ số tiền 10.000.000đ, anh Lê Hữu T số tiền 25.000.000đ; các bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm về phần dân sự.

Tại Cáo trạng số 29/CT-VKSHK ngày 09/05/2023 của Viện trưởng VKSND huyện Hương Khê truy tố bị cáo Cao Đức T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung trên và thừa nhận Cáo trạng truy tố là đúng, không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng của bị cáo mong được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có tranh luận và cũng không yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Cao Đức T về tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; áp dụng chương XII Bộ luật Hình sự bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, xử phạt bị cáo Cao Đức T từ 5 đến 6 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2022. Đồng thời đề nghị xử lý vật chứng và án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Cao Đức T tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa là phù hợp. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Từ ngày 27/11/2013 đến ngày 10/02/2014, Cao Đức T đã 03 lần thực hiện hành vi Cố ý gây thương tích, cụ thể:

Lần thứ nhất: Ngày 27/11/2013 mặc dù không có mâu thuẫn với anh Dương Văn Đ nhưng khi được Đinh Văn C rủ rê đánh anh Đ, Cao Đức T đã đồng ý, sau đó cùng Đinh Văn C và Đinh Tuấn V dùng típ sắt, dao (là hung khí nguy hiểm), tay chân gây thương tích cho anh Dương Văn Đ, hậu quả anh Đ bị thương với tỉ lệ phần trăm tổn hại sức khỏe là 36,3%. Trong lần này, Cao Đức T tham gia với vai trò giúp sức, trực tiếp dùng tay, chân đấm đá gây thương tích.

Lần thứ hai: Ngày 02/01/2014, cũng không có mâu thuẫn với anh Nguyễn Anh T nhưng khi được Nguyễn Viết Q rủ rê đánh anh T, Cao Đức T đã đồng ý và chuẩn bị 04 thanh kiếm (là hung khí nguy hiểm) rồi cùng Nguyễn Viết Q, Đinh Ngọc T dùng kiếm chém gây thương tích cho anh Nguyễn Anh T, hậu quả anh T bị thương với phần trăm tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 11,5%. Trong lần này, Cao Đức T tham gia với vai trò giúp sức, chuẩn bị hung khí, trực tiếp dùng kiếm chém gây thương tích.

Lần thứ ba: Ngày 10/02/2014, trong khi đi chơi cùng với Nguyễn Viết Q, Nguyễn Văn L và Lê Hồng Q; do trước đó đã có xích mích với anh Lê Hữu T nên Cao Đức T đã khởi xướng, rủ rê Q, L, Q đánh anh T. Sau đó T lấy ra 02 thanh kiếm (là hung khí nguy hiểm) đã cất giấu từ trước, T cầm 01 thanh kiếm, đưa cho Q 01 thanh kiếm rồi cả nhóm đuổi chém gây thương tích cho anh Lê Hữu T, hậu quả anh T bị thương với phần trăm tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 33%. Trong lần này, Cao Đức T tham gia với vai trò khởi xướng, rủ rê, chuẩn bị công cụ, trực tiếp dùng kiếm chém gây thương tích cho bị hại Tuấn.

[3] Hành vi của bị cáo phạm tội là do thiếu ý thức trong việc chấp hành pháp luật, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày dẫn đến việc gây thương tích cho người khác, thể hiện coi thường pháp luật, không những xâm hại đến sức khỏe của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn gây khó khăn cho hoạt động điều tra, xử lý các đối tượng phạm tội, thương tích của các bị hại là do bị cáo T cùng các đồng phạm trực tiếp gây ra. Do đó việc Viện kiểm sát truy tổ bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội đúng pháp luật;

[4] Bị cáo không có mâu thuẫn gì với các bị hại nhưng đã cùng Đinh Văn C, Đinh Tuấn V, Nguyễn Quốc V, Nguyễn Văn L, Lê Hồng Q thực hiện 3 lần phạm tội trong đó 1 lần với vai trò khởi xướng trực tiếp dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại.

Tại thời điểm thời điểm thực hiên hành vi phạm tội vào ngày 27/11/2013, ngày 02/01/2014 và ngày 10/2/2014, nhưng đến ngày 17/11/2022 Cao Đức T mới bị bắt; ngày 23/11/2022 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hương Khê ra quyết định phục hồi điều tra. Do chính sách pháp luật có sự điều chỉnh giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 nên cần căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội áp dụng điều khoản có lợi cho bị cáo T.

[5] Xét tính chất, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, thấy rằng bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, tính từ ngày thực hiện hành vi phạm tội bị cáo vừa đủ 16 tuổi 11 tháng 03 ngày, do vậy cần được xem xét theo nguyên tắc bảo đảm lợi ích tốt nhất và chú yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ bị cáo sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội, bị cáo phạm tội trong hoàn cảnh khá năng nhận thức còn hạn chế do chưa đủ tuổi trưởng thành, nên cần được áp dụng theo quy định tại các Điều 90, 91, 100, 101 Bộ luật hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường thiệt hại cho các bị hại, các bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, gia đình bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo được quy định tại điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, có tính chất côn đồ, dùng hung khí nguy hiểm, xúi dục người chưa thành niên phạm tội quy định tại điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; trong 3 lần phạm tội đều tham gia với vai trò tích cực, dùng chân tay, hung khí trực tiếp gây thương tích cho bị hại, trong đó có 1 lần trực tiếp khởi xướng, rủ rê người khác cùng phạm tội, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn. Xét thấy việc áp dụng các tình tiết quy định tại chương XII đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đổi với bị cáo Cao Đức T để xử lý các biện pháp giám sát, giao dục tại xã phương, thị trấn, biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là không phù hợp. Do đó Hội đồng xét xử, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Cao Đức T ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài nhằm tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người công dân có ích cho xã hội sau khi mãn hạn tù trở về địa phương.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp. Điều luật, tội danh, xử lý vật chứng và án phí có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Cao Đức T đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại anh Dương Văn Đ số tiền 10.000.000đ, anh Lê Hữu T số tiền 25.000.000đ, các bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Toàn bộ vật chứng vụ án Cố ý gây thương tích xẩy ra ngày 27/11/2013, ngày 02/01/2014, ngày 10/2/2014 đã được xem xét xử lý tại các bản án trước nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án cụ thế này.

[9] Trong lần gây thương tích cho anh Nguyễn Anh T vào 02/01/2014 có Cao Ngọc S và lần gây thương tích cho anh Lê Hữu T vào 10/02/2014 có Đinh Văn N đi cùng, nhưng Cao Ngọc S và Đinh Văn N không tham gia gây thương tích cho bị hại, do đó lực lượng chức năng không xem xét xử lý Cao Ngọc S Đinh Văn N với vai trò đồng phạm là có căn cứ.

[10] Về án phí: Bị cáo Cao Đức T thuộc gia đình hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Điều 90, 91,101 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Cao Đức T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Cao Đức T 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2022.

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Cao Đức T.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hương Khê - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về