Bản án về tội cố ý gây thương tích số 137/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 137/2022/HS-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số: 103/2022/HSST ngày 28 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 140/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 1984, tại Cà Mau; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã A, Hện B tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Nhà không số, Đường X, khu phố Y, phường Z, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 8/12; nghề nghiệp: Làm thuê; con ông Nguyễn Bé N (©) và bà Trần Thị A, sinh năm 1954; bị cáo có vợ Thạch Thị T, sinh năm 1996 và 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/10/2021 đến nay, có mặt phiên tòa.

* Bị hại: Anh Lữ Quốc C, sinh năm 1989.

Địa chỉ: đường N, khu phố M, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 1986.

Địa chỉ: đường T, khu phố M, phường N, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

2. Anh Thạch H, sinh năm 1987.

Địa chỉ: đường T, khu phố M, phường N, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 11/10/2021, Thạch H điều khiển xe mô tô biển số 6*x1- 5**.*5 từ nhà trọ Số XX/, Hẻm 6**, khu phố P, phường L, thành phố Thủ Đức đến khu vực đường Khu phố H, phường T, thành phố Thủ Đức để bán bánh mì dạo. Tại đây, H gặp Lê Văn M cũng là người bán bánh bánh mì dạo, bán bên cạnh chỗ bán của H nên hai bên xảy ra mâu thuẫn trong việc giành địa điểm bán. Sau đó, M gọi điện thoại báo lại sự việc cho chủ Cơ sở bánh mì Thành Đ là Lữ Quốc C biết sự việc. Sau khi nghe toàn bộ sự việc từ M, C gọi điện thoại cho H và cả hai xảy ra cự cãi.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 13/10/2021, Thạch H điều khiển xe mô tô biển số 69F1-763.95 đến nhà Nguyễn Văn Đ (cháu vợ của H) chơi và kể lại sự việc H bị C dọa chém, đồng thời H rủ Đ đến Cơ sở bánh mì Thành Đ gặp C nói chuyện Khoảng 08 giờ 45 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 6*x1- 5**.*5 chở theo Đ đến Cơ sở bánh mì Thành Đ, địa chỉ: khu phố P, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, H và Đ gặp C và Nguyễn Thị Cẩm G (là vợ của C) để nói chuyện nhưng hai bên xảy ra mâu thuẫn. Lúc này, G cầm 01 thanh kim loại tự chế để hăm dọa và lao về phía Đ. Thấy vậy, Đ chạy lùi về phía xe mô tô biển số 6*x1- 5**.*5 để né tránh thì thấy con dao Thái Lan đang kẹp trên tay nắm sau xe (sau cản xe) nên Đ bỏ vào túi quần (con dao H thường dùng để cắt bánh mì bán cho khách hàng) để phòng thân.

G không biết Đ đã lấy được dao nên tiếp tục dùng thanh kim loại đánh về phía Đ nhưng Đ né được. G tiếp tục cầm thanh kim loại đánh về phía H nhưng cũng không trúng. H và G giằng co làm thanh kim loại tự chế trên tay G rơi xuống đất. Lúc này, C lao đến dùng tay phải cầm 01 viên gạch lót vỉa hè ném trúng vào vai Đ. Sau đó, Đ dùng tay phải lấy con dao thái lan từ trong túi quần ra đâm 01 nhát vào bụng C. G thấy C và Đ đang giằng nên chạy đến giằng co với Đ. Lúc này, C định cầm thanh kim loại mà G làm rơi xuống đất trước đó lên để đánh Đ thì H giật được nên C lao vào dùng tay không đánh Đ. H thấy vậy nên dùng tay phải cầm thanh kim loại giật được từ C đánh 02 cái vào vùng lưng của C nhưng không gây thương tích. Rồi H lên xe mô tô chở Đ đi về. Sau đó, C và G đi vào nhà thì phát hiện C bị vết thương vùng bụng.

Trên đường đi về, Đ kể lại sự việc cho H biết, Đ đã dùng dao đâm trúng bụng của C nên H và Đ đến Công an phường L để đầu thú. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Nguyễn Văn Đ và Thạch H đã khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên và không có yêu cầu gì.

Cùng ngày 13/10/2021, Nguyễn Thị Cẩm G có đơn yêu cầu xử hình sự về hành vi gây thương tích của Đ và H cho C, đồng thời đề nghị giám định thương tích của C.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 804/TgT.21 ngày 08/12/2021 của Trung tâm pháp y, Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận cơ chế hình thành vết thương và tỷ lệ thương tích đối với Lữ Quốc C như sau:

“- Dấu vết chính qua giám định:

+ Vết thương thấu bụng vùng hố chậu trái gây thủng ruột lỗ hồi tráng đã được mở đường giữa bụng, khâu hồi tráng, khâu da, đặt dẫn lưu, đóng bụng, hiện còn:

- Một sẹo đâm kích thước 3,2 x (0,2 x 0,4) cm.

- Một sẹo mổ đường giữa bụng kích thước 15,8 x (0,2 – 0,5) cm.

- Một sẹo dẫn lưu hố chậu phải kích thước 0,9 x 0,4 cm.

- Tình trạng ổn định.

- Theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:

+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 29 % (Hai mươi chín phần trăm).

- Kết luận khác:

+ Vết thương do vật sắc, vật sắc nhọn tác động gây ra.

+ Con dao như quý cơ quan cung cấp có thể gây ra được vết thương trên.

+ Không đủ cơ sở xác định chiều hướng tác động.” * Vật chứng và đồ vật thu giữ:

- 01 (một) con dao có cán bằng gỗ dài 11 cm; lưỡi bằng kim loại dài 12 cm, rộng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, có một cạnh sắc và mũi nhọn (loại dao Thái Lan).

- 01 (một) thanh kim loại tự chế có hình dạng cong, cán dài 11 cm, lưỡi dài 11 cm; lưỡi bằng kim loại dài 46 cm, rộng khoảng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, không có cạnh sắc, có mũi nhọn.

- 01 (một) viên gạch màu đỏ kích thước 11cm x 22cm.

- 01 (một) gạc y tế có dính vết dịch màu đỏ.

- 01 (một) cây xẻng dài 116 cm, có cán gỗ, lưỡi kim loại rộng 23 cm.

- 01 (một) mũ bảo hiểm không rõ nhãn hiệu, màu đỏ đen và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave màu xanh đen, biển số 6*x1- 5**.*5. Kết quả điều tra xác định xe mô tô và mũ bảo hiểm trên do Thạnh H là chủ sở hữu. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã trả lại cho Thạch H.

- 01 USB chứa Clip liên quan đến vụ án gây thương tích ngày 13/10/2021 tại khu phố P, phường L, thành phố Thủ Đức.

Về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại: Anh Lữ Quốc C yêu cầu Nguyễn Văn Đ và Thạch H phải bồi thường chi phí điều trị và tiền C lao động bị thiệt hại trong khoảng thời gian điều trị với số tiền là 80.000.000 đồng, cụ thể: Chi phí điều trị ban đầu tại Bệnh viện Quân dân Y M là 893.454 đồng (có hóa đơn kèm theo); Chi phí điều trị tại Bệnh viện T là 13.837.564 đồng (có hóa đơn kèm theo); tiền C mất sức lao động khoảng 65.000.000 đồng nhưng không có tài liệu chứng minh. Phía gia đình Nguyễn Văn Đ tự nguyện bồi thường 20.000.000 đồng. Do đó, các bên chưa thống nhất được số tiền bồi thường.

Tại phiên tòa, bị hại Anh Lữ Quốc C xác định giảm mức bồi thường, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 60.000.000 đồng bao gồm chi phí điều trị và tiền C những ngày không được làm việc.

Tại Cáo trạng số: 124/CT-VKS ngày 25 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức vẫn giữ quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

- Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền mà bị hại yêu cầu là 60.000.000 đồng nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý với Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố và luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì. Đối với số tiền bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bị cáo đồng ý nhưng chưa có tiền để bồi thường ngay được.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi về hành vi của mình đã gây thương tích cho bị hại. Bị cáo rất mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về làm ăn nuôi gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng pháp luật.

[2] Xét trong quá trình điều tra và truy tố, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, hình ảnh camera, vật chứng thu giữ... cùng các tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra đã thu thập được trong quá trình điều tra về hành vi, thời gian, không gian, địa điểm xảy ra tội phạm, phù hợp với cáo trạng của Viện kiểm sát nên có cơ sở xác định: Khoảng 08 giờ 45 phút ngày 13/10/2021, tại trước Cơ sở bánh mì Thành Đ, địa chỉ: khu phố P, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Văn Đ đã có hành vi dùng dao đâm vào bụng của Lữ Quốc C, gây thương tích 29 %.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến sức khỏe của người khác, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn xã hội. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng do không làm chủ được tâm lý bản thân nên không kiểm soát được hành vi của mình, bị cáo đã dùng dao đâm vào bụng của bị hại gây thương tích. Hành vi của bị cáo thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Đối với Thạch H có hành vi dùng thanh kim loại tự chế đánh vào lưng của Lữ Quốc C nhưng không gây thương tích. Trong lúc đánh C, H không biết Đ cầm dao lúc nào và không biết Đ đâm trúng bụng C. Mục đích của H rủ Đ đến nhà C để nói cHện. Do đó, H không phải chịu trách nhiệm đối với hành vi gây thương tích của Nguyễn Văn Đ nên không đủ cơ sở xử lý hình sự Thạch H về tội “Cố ý gây thương tích”.

Đối với Lữ Quốc C có hành vi dùng tay không đánh và cầm viên gạch lót vỉa hè nèm vào người Nguyễn Văn Đ nhưng không gây thương tích. Nguyễn Thị Cẩm G có hành vi dùng thanh kim loại tự chế đánh vào người Nguyễn Văn Đ và Thạch H nhưng không gây thương tích. Ngoài ra Nguyễn Văn Đ và Thạch H không yêu cầu xử lý hình sự. Do đó, hành vi của Lữ Quốc C, Nguyễn Thị Cẩm G không đủ căn cứ xử lý hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo sử dụng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ thương tật là 29% nên thuộc trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Xét trong quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại cũng có một phần lỗi; bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, bị cáo dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ 29% nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Xét tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường thiệt hại số tiền bị hại yêu cầu gồm chi phí điều trị và tiền thu nhập bị mất, giảm sút tổng cộng là 60.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận thỏa thuận này.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) con dao có cán bằng gỗ dài 11 cm; lưỡi bằng kim loại dài 12 cm, rộng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, có một cạnh sắc và mũi nhọn (loại dao Thái Lan); 01 (một) thanh kim loại tự chế có hình dạng cong, cán dài 11 cm, lưỡi dài 11 cm, lưỡi bằng kim loại dài 46 cm, rộng khoảng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, không có cạnh sắc, có mũi nhọn; 01 (một) viên gạch màu đỏ kích thước 11cm x 22cm; 01 (một) gạc y tế có dính vết dịch màu đỏ; 01 (một) cây xẻng dài 116 cm, có cán gỗ, lưỡi kim loại rộng 23 cm: Xét đây là hung khí, đồ vật gây án không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) mũ bảo hiểm không rõ nhãn hiệu, màu đỏ đen và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda loại Wave màu xanh đen, biển số 6xF1-5**.*5 là của Thạch H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã trả lại cho Thạch H là có căn cứ.

- Đối với 01 USB chứa Clip liên quan đến vụ án gây thương tích ngày 13/10/2021 tại khu phố P, phường L, thành phố Thủ Đức là dữ liệu hình ảnh chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên lưu theo hồ sơ vụ án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ: 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/10/2021.

3. Về bồi thường thiệt hại: Căn cứ Điều 590, Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, - Buộc bị cáo Nguyễn Văn Đ bồi thường cho Anh Lữ Quốc C số tiền 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu, tiêu hủy:

+ 01 (một) con dao có cán bằng gỗ dài 11 cm; lưỡi bằng kim loại dài 12 cm, rộng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, có một cạnh sắc và mũi nhọn (loại dao Thái Lan);

+ 01 (một) thanh kim loại tự chế có hình dạng cong, cán dài 11 cm, lưỡi dài 11 cm, lưỡi bằng kim loại dài 46 cm, rộng khoảng 02 cm và hẹp dần về phía mũi, không có cạnh sắc, có mũi nhọn;

+ 01 (một) viên gạch màu đỏ kích thước 11cm x 22cm;

+ 01 (một) gạc y tế có dính vết dịch màu đỏ; 01 (một) cây xẻng dài 116 cm, có cán gỗ, lưỡi kim loại rộng 23 cm.

(Theo Quyết định cHển vật chứng số 48/QĐ-VKS ngày 14/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức và Biên bản giao nhận vật chứng số 47/22 L ngày 25/3/2022 giữa Công an thành phố Thủ Đức và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).

5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

- Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.000.000 (ba triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

- Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 137/2022/HS-ST

Số hiệu:137/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về