TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 03/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Trong ngày 03 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2021; Thông báo dời phiên tòa số 15/2021/TB-TA, ngày 30/7/2021; Thông báo dời phiên tòa số 26/2021/TB-TA, ngày 27/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 33/2021/HSST- QĐ, ngày 24/9/2021; Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 24/TB-TA, ngày 28/12/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/HSST-QĐ, ngày 14/01/2022 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 25/TB-TA, ngày 17/02/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn S, sinh năm 1977; tại: NX, HT; Nơi ĐKTT: Khu phố 10, phường DĐ, tỉnh KG; Chổ ở: kp 7, phường DĐ, thành phố PQ, tỉnh KG; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vương Anh H và bà Phan Thị L; Vợ: Lê Thị Thanh Th, sinh năm 1985; Con: 03 người, lớn nhất sinh năm 2010 và nhỏ nhất sinh năm 2020; Tiền án, Tiền sự: Không (Có mặt) Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/3/2021 đến nay.
Bị hại: Lê Thị H, sinh năm 1971 Nơi cứ trú: Ấp GD, xã GD, thành phố PQ, tỉnh KG (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 21/01/2021, Phạm Văn S đi xe ô tô đến Ấp GD, xã GD, thành phố PQ, để kiểm tra công trình xây dựng nhà trọ trên thửa đất vợ chồng ông Vương Văn D và bà Lê Thị H đang sinh sống. Khi đến chỗ công trình đang xây dựng S nhìn thấy ông D đang cầm cây xẻng trộn hồ, S đi đến kêu ông D trả tiền cho S để S trả tiền xây dựng nhà trọ, ông D không đồng ý nên phát sinh mâu thuẫn, cự cải dẫn đến đánh nhau, ông D cầm cây xẻng đánh trúng vào lưng S 01 cái không bị thương, S chụp được cây xẻng hai bên giằng co, thấy vậy anh Lê Thanh T đến can ngăn ôm ông D lại, S giật lấy được cây xẻng vứt bỏ. Lúc này bà H từ trong phòng trọ chạy ra cự cải và cho rằng không thiếu tiền Sỹ, S rượt bà H bỏ chạy vào phòng trọ của anh T gần đó, thì S chạy vào phòng dùng tay nắm tóc bà H kéo xuống, tay còn lại đánh trúng vào sống mũi bà H gây thương tích, sau đó S lên xe ô tô chạy về nhà, bà H được người thân đưa đến Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec thuộc xã GD để điều trị. Ngày 25/3/2021, Phạm Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố PQ khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.
* Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu; xử lý vật chứng: Không.
* Kết luận giám định pháp y về thương tích số 93/TgT ngày 10 tháng 3 năm 2021 của Trung tâm pháp y Sở Y tế tỉnh KG kết luận Lê Thị H, năm sinh 1971; giới: Nữ; địa chỉ: Tổ 4, ấp GD, xã GD, thành phố PQ, tỉnh KG như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo phần mềm vùng sống mũi.
- Gãy xương chính mũi.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 12% (Mười hai phần trăm).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định pháp y số 93/TgT, ngày 10/3/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh KG Riêng bị cáo Phạm Văn S có đơn yêu cầu giám định lại thương tích của bà Lê Thị H nhưng Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố PQ cũng như Viện kiểm sát nhân dân thành phố PQ đều có văn bản không chấp nhận yêu cầu của bị cáo vì không có cơ sở để giám định lại.
Bản cáo trạng số 83/CT-VKSPQ ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PQ đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Sau phần xét hỏi công khai tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát thực hành quyền công tố trình bày lời luận tội đối với bị cáo. Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 134; điểm s, i khoản 1, 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường, đề nghị HĐXX không xem xét.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng:
Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố PQ, tỉnh KG, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PQ, tỉnh KG đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Hành vi phạm tội: Vào ngày 21/01/2021 Phạm Văn S đến khu đất S đang xây nhà trọ để nghiệm thu thì xảy ra cự cãi với Vương Văn D là anh ruột của bị cáo. Ông D cầm cây leng xúc đất đánh bị cáo thì hai bên giằng co với nhau. Bị cáo dùng tay trúng sống mũi bà H gây thương tích. Sau đó S đi về nhà, còn bà H được mọi người đưa đến bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Phú Quốc cấp cứu, theo kết quả chẩn đoán của bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec PQ ghi nhận hình ảnh gãy xương chính mũi bên phải. Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 93/Tgt ngày 10 tháng 3 năm 2021 của sở y tế tỉnh Kiên Giang đã kết luận: Sẹo phần mềm vùng sống mũi, gãy xương chính mũi. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12 %.
Như vậy, cáo trạng mà viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo tuy nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, việc bị cáo gây thương tích có một phần lỗi của bị hại.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Ngoài ra năm 2019 bị cáo được giám đốc công an tỉnh KG tặng giấy khen đã có thành tích tiêu biểu, xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.
Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng hành vi phạm tội của bị cáo không có tính chất côn đồ, HĐXX xét thấy không cần cách ly bị cáo ra đồi sống xã hội nên chỉ cần áp dụng hình phạt tù, cho hưởng án treo đối với bị cáo [5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường, HĐXX không xem xét.
[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ, HĐXX xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về trách nhiệm hình sự:
Căn cứ khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 và 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Cố ý gây thương tích” Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn S 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND phường DĐ nơi cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo
2.Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường, HĐXX không xem xét
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai báo cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa nên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 12/2022/HS-ST
Số hiệu: | 12/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về