Bản án về tội cố ý gây thương tích số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 28 tháng 06 năm 2021 tại trụ sở Tòa án Nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 78/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 05 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 668/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Đào Chí L; Giới tính: Nam; Sinh ngày 17/9/1998; tại: Cà Mau; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã An Xuyên, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở hiện nay: Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán 86 Phố Tây; Con ông: Đào Văn H (Sinh năm: 1974); và bà: Hồ Thị N (Sinh năm: 1971); Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 03/12/2020.

2. Lai Vĩnh K; Giới tính: Nam; Sinh ngày 15/7/1998; tại: Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: X Đề Thám, phường Cầu Ông Lãnh, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay:Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán 86 Phố Tây; Con ông: Lai Wuen C (Sinh năm: 1940) và bà: Nguyễn Thị Bích P (Sinh năm: 1973); Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 18/5/2020, có hành vi “Gây mất trật tự ở nơi công cộng” bị Công an Quận 1 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0017447/QĐ-XPHC ngày 14/7/2020 phạt tiền 200.000 đồng; Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 30/11/2020.

3. Phan Minh L; Giới tính: Nam; Sinh ngày 24/9/1995; tại: An Giang; Hộ khẩu thường trú: X Nguyễn Thượng Hiền, Bình Khánh 1, phường Bình Khánh, Tp. Long Xuyên, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: X Tôn Thất Thuyết, Phường 18, Quận 4, Tp. Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Cao Đài; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán Miss Saigon; Con ông: Phan Thanh T (Sinh năm: 1971) và bà: Nguyễn Ngọc M (Sinh năm: 1973); Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 30/11/2020.

4. Đặng Thế N; Giới tính: Nam; Sinh ngày 01/7/1989; tại: Tp. Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: X Cao Lỗ, Phường 4, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay: huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán Maya; Con ông: Đặng Thế C (Chết) và bà: Lê Thị L (Sinh năm: 1958); Vợ, con: Chưa có.

Nhân thân:

- Ngày 26/7/2007, bị Công an Quận 10, Tp. Hồ Chí Minh bắt giữ về hành vi “Cướp giật tài sản”. Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 02 năm 3 tháng tù (Bản án số 22/2008/HSST ngày 25/02/2008). Đến ngày 27/8/2009, chấp hành xong hình phạt tù về địa phương (đã xóa án tích)

- Ngày 16/01/2015, bị Công an huyện Bình Chánh, Tp. Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 66/QĐ-XPVPHC về hành vi “Cất giữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng) phạt tiền 1.500.000 đồng.

- Ngày 23/02/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Đặng Thế N tại Cơ sở cai nghiện ma túy số 3 (Quyết định số 85/QĐ-TA).

Đến ngày 04/6/2018, chấp hành xong quyết định về địa phương.

Tiền án – Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 30/11/2020.

5. Lê Văn T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 11/3/1992; tại: Kiên Giang; Hộ khẩu thường trú: X tổ 136 Tam Đông 2, xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh; Chỗ ở hiện nay:xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán Maya; Con ông: Lê Văn H (Chết) và bà : Hoàng Thị T (Sinh năm: 1946); Vợ: Hà Ngọc H, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 30/11/2020.

6. Trần Văn T; Giới tính: Nam; Sinh ngày 15/3/1997; tại: Vĩnh Long; Hộ khẩu thường trú: Ấp Đ, xã Loan Mỹ, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 07/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán Volcabalbar; Con ông: Tân Ngọc E (Chết) và bà: Trần Thị B (chết); Vợ: Cao Thị Hồng L (sinh năm: 2000), con: Cao Huỳnh T (Sinh năm: 2018).

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 30/11/2020.

7. Hà Huỳnh Phúc K; Giới tính: Nam; Sinh ngày 21/4/1998; tại: Bến Tre; Hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã Phú An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre; Chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán 86 Phố Tây; Con ông: Không rõ và bà: Hà Kim P (Sinh năm: 1965); Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 18/5/2020, có hành vi “Gây mất trật tự ở nơi công cộng” bị Công an Quận 1 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0017447/QĐ-XPHC ngày 14/7/2020 phạt tiền 200.000 đồng; Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 22/3/2021.

8. Nguyễn Công T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/02/1997; tại: Vĩnh Long; Hộ khẩu thường trú: X Lưu Văn Liệt, Phường 02, Tp. Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long; Chỗ ở hiện nay:Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán 86 Phố Tây; Con ông: Nguyễn Công H (Sinh năm: 1962) và bà: Nguyễn Thị N (Sinh năm: 1961); Vợ: Võ Hồng Hoàng Oanh (sinh năm: 2001), con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 22/3/2021.

9. Huỳnh Nhật T; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 02/02/2002; tại: Cà Mau; Hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã Lý An, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; Chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Nhân viên quán Volcabalbar; Con ông: Huỳnh Văn T (Sinh năm: 1977) và bà: Trần Thị K (Sinh năm: 1986); Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 22/3/2021.

Những người tham gia tố tụng khác:

- Bị hại: Lê Khắc V Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người làm chứng:

1. Bà La Thị Thúy T Địa chỉ: Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

2. Bà Lê Thị H Địa chỉ: Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

3. Ông Nguyễn Chí H Địa chỉ: Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

4. Ông Trịnh Trọng Q Địa chỉ: Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

5. Bà Khương phùng Cẩm P Địa chỉ: huyện Trảng B, tỉnh Tây Ninh.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đào Chí L, Lai Vĩnh K, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T, Trịnh Trọng Q, Nguyễn Chí H và Lê Thị H là nhân viên quán 86 Phố Tây, số X Bùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 (do Trần Ngọc L là chủ hộ kinh doanh đại diện theo pháp luật). Còn Phan Minh L là nhân viên quán Miss Saigon, số X Bùi Viện, phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 (cùng chủ với quán 86 Phố Tây).

Đng Thế N, Lê Văn T, La Thị Thúy T là nhân viên quán Maya, số XBùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 (do Nguyễn Thị Q làm giám đốc và đại diện theo pháp luật). Còn Trần Văn T, Huỳnh Nhật T và Lê Khắc V là nhân viên quán Volcabalbar, số X Bùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 (cùng chủ với quán Maya).

Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 26/11/2020, do mâu thuẫn trong việc tranh giành khách nên Đặng Thế N đánh nhau bằng tay với Lai Vĩnh K. Thấy vậy, Lê Khắc V, Huỳnh Nhật T và một số nhân viên quán Maya vào can ngăn. Khi đó, Lai Vĩnh K lấy bàn (loại thùng phuy bằng kim loại) từ quán 86 Phố Tây ném qua quán Maya, cùng lúc này một số nhân viên quán 86 Phố Tây cùng tham gia dùng bàn, ghế xếp kim loại, vỏ chai bia, ly thủy tinh ném theo.

Lúc này, N dùng ghế chống đỡ và ném về phía quán 86 Phố Tây, T và V can ngăn nhưng bị nhóm nhân viên của quán 86 Phố Tây gồm Đào Chí L, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và một số đối tượng khác (chưa rõ lai lịch) vẫn tiếp tục dùng cây (gỗ và kim loại), vỏ chai, ly thủy tinh, ghế ném qua quán Maya nên T, T, T dùng vỏ chai bia, ly thủy tinh ném lại. Trong quá trình này, Phan Minh L đang làm việc tại quán Miss Saigon thấy đánh nhau nên nhặt cây nhôm trên đường Bùi Viện (không rõ địa chỉ) đến hỗ trợ, khi đến nơi thì thấy nhóm nhân viên quán 86 Phố Tây đang dùng vỏ chai bia, ghế ném qua quán Maya nên L dùng vỏ chai bia cùng ném theo, Đào Chí L cầm ghế xếp bằng kim loại ném trúng vào mặt anh V gây thương tích và làm anh V ngã xuống đường nên N đưa V vào trong quán Maya rồi tiếp tục dùng vỏ chai bia ném về phía quán 86 Phố Tây. Còn T bị tấn công nên bỏ chạy vào nhà số 57 Bùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 thì bị Phúc K cầm vỏ chai thủy tinh và 03 đối tượng khác (không rõ lai lịch) cầm cây bằng kim loại và ghế đuổi theo. Sau đó, T bị đánh gây thương tích.

Khi sự việc đang diễn ra, anh Trịnh Trọng Q đứng trong quán 86 Phố Tây, La Thị Thúy T đang ở trong quán Maya bị các mảnh vỡ thủy tinh trúng vào đầu, mặt gây thương tích. Lê Thị H có mặt tại hiện trường và đến quán Maya chụp hình những người tham gia sự việc. Sau đó, Vĩnh K, L và một số nhân viên quán Phố Tây thu dọn bàn ghế đã ném qua quán Maya.

Nhn được tin báo, Công an phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 đến hiện trường đưa Đặng Thế N, Lê Văn T, Lai Vĩnh K và Lê Thị H về trụ sở làm rõ sự việc, còn các đối tượng khác đã bỏ trốn.

Cơ quan CSĐT Công an Quận 1 phối hợp Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 khám nghiệm hiện trường và thu giữ nhiều mảnh vỡ thủy tinh, ghế, bàn, cây gỗ và cây kim loại.

Ngày 30/11/2020, qua truy xét, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đưa Trần Văn T, Phan Minh L và triệu tập Huỳnh Nhật T và Nguyễn Chí Hiếu về trụ sở làm rõ sự việc.

Ngày 03/12/2020, 22/3/2021 và 23/3/2021, Đào Chí L, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T đến trụ sở Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đầu thú.

Cơ quan CSĐT Công an Quận 1 đã gửi công văn đề nghị Ủy ban nhân dân Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 xác định sự việc trên ảnh hưởng thế nào đến an ninh trật tự, an toàn xã hội và dư luận quần chúng nhân dân tại địa phương. Ngày 27/11/2020, Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão có công văn phúc đáp số 751/UBND kết luận: “Vụ việc xảy ra ngày 26/11/2020 vừa qua phát sinh do mâu thuẫn cá nhân, kinh doanh dẫn đến lôi kéo băng nhóm để giải quyết bằng hung khí, thanh toán nhau tại địa bàn công cộng đã gây hoang mang trong số đông quần chúng nhân dân tại địa bàn phường Phạm Ngũ Lão, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương”.

Ngày 27/11/2020, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đã ra Quyết định trưng cầu giám định tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Lê Khắc V, Trịnh Trọng Q và Huỳnh Nhật T.

Ti bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 17/TgT.21 ngày 22/01/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế Tp. Hồ Chí Minh kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Chấn thương phần mềm gây rách đứt da đang được khâu ép gạc kích thước 5,3x0,1 cm tại vùng trán trên.

Thương tích do vật tày, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra, không nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

- Chấn thương vùng trán, mặt gây sưng bầm, rách da, vỡ lún sọ trán, vỡ xoang sàng hai bên, có khí trong sọ, đã được khâu các vết thương bảo tồn, hiện còn ba vết thương có khâu một mũi tại mi trên mắt phải và góc mũi kèm sây sát da, bầm tụ máu vùng trán, vùng hốc mắt hai bên, vùng gốc mũi.

Thương tích do vật tày có cạnh tác động mạnh gây ra, có nguy hiểm đến tính mạng đương sự.

2. Theo thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:

- Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 28% (Hai mươi tám phần trăm).

3. Kết luận khác:

- Thông tư 22/2019/TT-BYT không quy định về thẩm mỹ đối với các thương tích trên.”.

Ti bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 18/TgT.21 ngày 22/01/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế Tp. Hồ Chí Minh kết luận Trịnh Trọng Q: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 03% (các thương tích do vật có cạnh sắc gây ra; không nguy hiểm đến tính mạng đương sự; Thông tư 22/2019/TT-BYT không quy định thẩm mỹ đối với các thương tích này).

Ti bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 38/TgT.21 ngày 28/01/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế Tp. Hồ Chí Minh kết luận Huỳnh Nhật T: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 08% (các thương tích do vật tày có cạnh, vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra; không nguy hiểm đến tính mạng đương sự; Thông tư 22/2019/TT-BYT không quy định thẩm mỹ đối với các thương tích trên).

Quá trình điều tra, Đào Chí L, Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của L, Vĩnh K, L, N, T, T, Phúc K, T và T phù hợp với nhau và phù hợp với hình ảnh camera tại hiện trường, khu vực xung quanh ghi nhận, vật chứng thu giữ, biên bản đối chất, nhận dạng và các tài liệu chứng cứ mà Cơ quan điều tra thu thập được.

Đối với Lê Thị H, Trịnh Trọng Q, Nguyễn Chí H và La Thúy T khai nhận không tham gia vào sự việc đánh nhau, H chỉ can ngăn không chỉ đạo nhân viên quán 86 Phố Tây đánh nhau với nhóm nhân viên quán Maya. Lời khai của H, Q, H phù hợp với lời khai của Đào Chí L, Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra Công an Quận 1 thu thập được nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không xử lý.

Đi với thương tích của Huỳnh Nhật T, Hà Huỳnh Phúc K khai không thừa nhận việc đánh T gây thương tích. Ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào khác xác định Phúc K là người đánh T gây thương tích, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đang tiếp tục điều tra làm rõ khi nào có căn cứ tiến hành xử lý sau.

Đi với thương tích của La Thị Thúy T và Trịnh Trọng Q. Do T từ chối giám định thương tích, còn thương tích của Q dưới 11% đồng thời Q có đơn bãi nại yêu cầu không xử lý hình sự đối với người gây thương tích cho mình nên không đủ cơ sở để xử lý hình sự.

Đi với số tài sản bị thiệt hại ở quán Maya, bà Khương Phùng Cẩm P (là người đại diện theo ủy quyền) không có yêu cầu giải quyết do quán không có thiệt hại tài sản đáng kể nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không đủ cơ sở để xem xét giải quyết.

Đối với một số đối tượng khác được camera ghi nhận có dùng chai bia, cây (gỗ, kim loại) tham gia gây rối. Qua xác minh chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đang tiếp tục xác minh, làm rõ khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Vt chứng:

- 07 ghế xếp; 01 thùng kim loại màu xanh lá;

- 01 cây gỗ dài 72 cm; 01 cây kim loại màu đen dài 76 cm; 01 cây kim loại màu xám dài 106 cm;

- 01 két bia màu xám; 01 số mảnh vỡ vỏ chai thủy tinh;

- 01 USB chứa các video clip quay lại hình ảnh vụ việc (lưu trong hồ sơ).

Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 1 đang tạm giữ các vật chứng trên.

Về trách nhiệm dân sự:

- Lê Khắc V đã nhận bồi thường 200.000.000 đồng và có đơn bãi nại và không yêu cầu bồi thường dân sự. Trịnh Trọng Q và La Thị Thúy T có đơn bãi nại không yêu cầu xử lý hình sự và không có yêu cầu gì về dân sự. Huỳnh Nhật T yêu cầu xử lý hình sự những người đánh mình gây thương tích và bồi thường theo quy định pháp luật.

Ti bản cáo trạng số 82/CT-VKSQ1 ngày 13 tháng 05 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo:

- Đào Chí L, về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T, về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại Khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Tại phiên toà:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố đối các với bị cáo và đề nghị:

+ Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Đào Chí L từ 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lai Vĩnh K từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phan Minh L từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đặng Thế N từ 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” + Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Hà Huỳnh Phúc K từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Công T từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” nhưng cho hưởng án treo .

+ Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Huỳnh Nhật T từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” .

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường thiệt hại nên không có yêu cầu gì thêm.

+ Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thống nhất với nội dung cáo trạng, bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an Quận 1, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Xét thấy, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 45 phút ngày 26/11/2020, tại trước quán Maya, số X Bùi Viện, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, do mâu thuẫn trong việc tranh giành khách giữa nhân viên quán 86 Phố Tây và nhân viên quán Maya, Đào Chí L có hành vi dùng ghế xếp bằng kim loại (là hung khí nguy hiểm) ném vào mặt gây thương tích cho bị hại Lê Khắc V với tỉ lệ 28%, đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Còn các bị cáo Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T có hành vi đánh nhau, ném qua lại các chai bia, bàn ghế tại nơi công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo theo các điều khoản trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo Đào Chí L là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của con người, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình quản lý trật tự, trị an xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn liều lĩnh, bất chấp hậu quả, thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và bảo đảm răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự; đã bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; người bị hại có đơn bãi nại; tự nguyện ra đầu thú, nên cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Hành vi của các bị cáo Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo và bảo đảm răn đe, phòng ngừa chung. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để có mức án tương xứng với từng bị cáo.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo Phan Minh L, Lê Văn T, Trần Văn T, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T có nhân thân tốt. Bị cáo Đặng Thế N có nhân thân xấu. Các bị cáo Hà Huỳnh Phúc K, Lai Vĩnh K đều có 01 tiền sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T tự nguyện ra đầu thú nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo Phan Minh L, Lê Văn T, Trần Văn T phạm tội lần đầu chưa có tiền án tiền sự nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tang nặng trách nhiệm hình sự.

[9] Xét thấy, các bị cáo Phan Minh L, Lê Văn T, Nguyễn Công T có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có nơi cư trú cụ thể, rõ rang; có khả năng tự cải tạo. Do đó, việc cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, đồng thời giúp các bị cáo có cơ hội tự rèn luyện, phấn đấu trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

[10] Đối với Lê Thị H, Trịnh Trọng Q, Nguyễn Chí H và La Thúy T khai nhận không tham gia vào sự việc đánh nhau, H chỉ can ngăn không chỉ đạo nhân viên quán 86 Phố Tây đánh nhau với nhóm nhân viên quán Maya. Lời khai của H, Q, H phù hợp với lời khai của Đào Chí L, Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và tài liệu, chứng cứ mà Cơ quan điều tra Công an Quận 1 thu thập được nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không xử lý là có cơ sở.

[11] Đối với thương tích của Huỳnh Nhật T, Hà Huỳnh Phúc K không thừa nhận việc đánh T gây thương tích. Ngoài lời khai của T không có tài liệu chứng cứ nào khác xác định Phúc K là người đánh T gây thương tích, Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đang tiếp tục điều tra làm rõ khi nào có căn cứ tiến hành xử lý sau là có cơ sở.

[12] Đối với thương tích của La Thị Thúy T và Trịnh Trọng Q, do Thơ từ chối giám định thương tích, còn thương tích của Q dưới 11% đồng thời Q có đơn bãi nại yêu cầu không xử lý hình sự đối với người gây thương tích cho mình nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không đủ cơ sở để xử lý hình sự là có căn cứ.

[13] Đối với số tài sản bị thiệt hại ở quán Maya, bà Khương Phùng Cẩm P (là người đại diện theo ủy quyền) không có yêu cầu giải quyết do quán không có thiệt hại tài sản đáng kể nên Cơ quan điều tra Công an Quận 1 không đủ cơ sở để xem xét giải quyết là có cơ sở.

[14] Đối với một số đối tượng khác được camera ghi nhận có dùng chai bia, cây (gỗ, kim loại) tham gia gây rối. Qua xác minh chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra Công an Quận 1 đang tiếp tục xác minh, làm rõ khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[15] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường thiệt hại nên không yêu cầu gì thêm, do đó Hội đồng xét xử không xét.

[16] Về vật chứng, cần: tịch thu tiêu hủy 07 ghế xếp; 01 thùng kim loại màu xanh lá; 01 cây gỗ dài 72 cm; 01 cây kim loại màu đen dài 76 cm; 01 cây kim loại màu xám dài 106 cm; 01 két bia màu xám; 01 số mảnh vỡ vỏ chai thủy tinh do không còn giá trị sử dung (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 275/20-PNK ngày 07/12/2020); tiếp tục lưu hồ sơ 01 USB chứa các video clip quay lại hình ảnh vụ việc.

[17] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

[18] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đào Chí L phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

- Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Đào Chí L 02 (hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 12 năm 2020.

Tuyên bố các bị cáo Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lai Vĩnh K 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03 tháng 12 năm 2020.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phan Minh L 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 4 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án.

Bị cáo Phan Minh L thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường 18, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Thế N 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 11 năm 2020.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Văn T 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 4 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án.

Bị cáo Lê Văn T thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Thới Tam Thôn, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự - Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 11 năm 2020 - Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hà Huỳnh Phúc K 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 03 năm 2021.

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T 02 ( hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 4 (bốn) năm, tính từ ngày tuyên án.

Bị cáo Nguyễn Công T thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự .

- Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Nhật T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 03 năm 2021.

Về xử lý vật chứng:

- Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 Tịch thu tiêu hủy: 07 ghế xếp; 01 thùng kim loại màu xanh lá; 01 cây gỗ dài 72 cm; 01 cây kim loại màu đen dài 76 cm; 01 cây kim loại màu xám dài 106 cm; 01 két bia màu xám; 01 số mảnh vỡ vỏ chai thủy tinh.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 275/20-PNK ngày 07/12/2020).

Tiếp tục lưu hồ sơ 01 USB chứa các video clip quay lại hình ảnh vụ việc.

- Căn cứ vào Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội; Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

- Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Các bị cáo Đào Chí L, Lai Vĩnh K, Phan Minh L, Đặng Thế N, Lê Văn T, Trần Văn T, Hà Huỳnh Phúc K, Nguyễn Công T và Huỳnh Nhật T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại Lê Khắc V có quyền kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

(Đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về