Bản án về tội cố ý gây thương tích số 01/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 04/01/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

161/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Minh T; sinh năm X tại thành phố Q, tỉnh Bình Định; nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh Tvà bà Nguyễn Thị C; chưa có vợ con; tiền án: 01 – ngày 23-7-2018 bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đ xử phạt 30 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07-10-2019;

tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 25-3-2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 23-3-2012 bị Tòa án nhân dân thành phố Q xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, các án tích đó đã được xóa; bị bắt, tạm giam ngày 01-10-2020; có mặt.

- Bị hại: Anh Đỗ Ngọc H, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ Z, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; có mặt.

- Người làm chứng:

Chị Trương Thị Thanh B, sinh năm 1982; nơi cư trú: Tổ Z, khu vực N, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; có mặt.

Chị Nguyễn Thị Minh N, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ K, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; có mặt.

Anh Trương Tấn Đ, sinh năm 1978; nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

Anh Lê Mạnh H1, sinh năm 1981; nơi cư trú: Tổ K, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

Anh Phan Văn Đ, sinh năm 1981; nơi cư trú: Tổ X, khu vực Y, phường B, thành phố Q, tỉnh Bình Định; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Minh T và Trương Thị Thanh B có quan hệ tình cảm với nhau. T cho rằng Bình đi chơi với Đỗ Ngọc H và đăng hình lên facebook nên T nảy sinh bực tức với anh H. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15-7-2020, T đi ngang qua nhà anh Lê Mạnh H thấy anh H đang ngồi trên võng nói chuyện với chị Nguyễn Thị Minh N cũng đang ngồi trên võng gần đó. Lúc này T chạy về nhà mình lấy 01 con đao bằng kim loại, cán bằng gỗ, dài khoảng 60cm tới trước nhà anh H1 nói “H, mày ra đây nói chuyện với tao” và cầm đao chạy về hướng anh H đang ngồi. Lúc này, H chuẩn bị đứng dậy thì T cầm đao chém nhiều cái vào chân trái, tay trái của H gây thương tích rồi bỏ đi, đem con đao về nhà cất giấu. Sau đó, anh Phan Văn Đ ở cùng nhà với T đã đem vứt bỏ con đao, không thu hồi được. Anh H được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định và có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 192/2020/PY-TgT ngày 03-9-2020 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Định kết luận:

- Vết thương phần mềm cánh tay trái gây đứt gân cơ tam đầu đã phẫu thuật khâu gân cơ tam đầu, khâu vết thương. Hiện cánh tay trái đoạn 1/3 trên vết thương để sẹo rõ kích thướt (7x0,5)cm; vận động cánh tay trái trong giới hạn bình thường.

- Vết thương phần mềm cẳng tay trái gây đứt gân cơ duỗi chung các ngón đã phẫu thuật khâu nối gân cơ, khâu vết thương. Hiện cẳng tay trái đoạn 1/3 trên-sau- ngoài vết thương để sẹo chữ Z kích thướt (10,5x0,5)cm; vận động sấp-ngửa cẳng tay đau.

- Vết thương phần mềm vùng đùi trái đã điều trị. Hiện đùi trái đoạn 1/3 giữa trước-ngoài đến 1/3 dưới vết thương để sẹo lồi, rõ kích thướt (15x0,7)cm.

- Vết thương cẳng chân trái gây gãy xương mác, đứt thần kinh hông khoeo ngoài, đứt cơ rộng ngoài, đứt lộ cơ ngoài cẳng chân trái đã phẫu thuật cắt lọc vết thương, khâu nối thần kinh, khâu nối gân cơ. Hiện cẳng chân trái đoạn 1/3 trên-sau- ngoài vết thương để sẹo chữ L kích thước (13x0,4)cm, sẹo dính; đi lại khó (dấu phát cỏ).

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31%.

Bản cáo trạng số 147/CT-VKSQN ngày 24-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo Trần Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo như bản cáo trạng đã nêu và các chứng cứ mà cơ quan cảnh sát điều tra đã thu thập, bị cáo xin Tòa án xử nhẹ.

Bị hại Đỗ Ngọc H thống nhất với nội dung bản cáo trạng. Trong lúc anh nằm viện, gia đình T và T có đến bệnh viện để chăm sóc anh và đã bồi thường số tiền 25.000.000 đồng để anh chi trả viện phí, thuốc men và phục hồi sức khỏe. Anh không yêu cầu bồi thường gì thêm và mong Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho T để T có thể làm lại cuộc đời giúp ích cho xã hội.

Trong phần luận tội, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Minh T như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 05 năm đến 06 năm tù; về dân sự, do bị hại không yêu cầu nên không xem xét.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Trần Minh T nhận thức được hành vi của bị cáo là sai do thiếu suy nghĩ, nông nỗi và xin xử phạt nhẹ bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố bảo đảm tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại.

[2] Bị cáo Trần Minh T có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi, nhưng chỉ vì một chút ghen tuông vô cớ, khi chưa tìm hiểu rõ sự tình, bị cáo đã dùng cây đao - là hung khí nguy hiểm – chém vào chân trái, tay trái của anh Đỗ Ngọc H, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 31%. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe của người khác, có tính chất côn đồ, rất nguy hiểm cho xã hội, nên bị cáo đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bị cáo T đã từng bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đ xử phạt 30 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại Bản án số 179A/2018/HS-PT ngày 23-7-2018, mới chấp hành xong hình phạt, chưa được xóa án tích mà lại cố ý gây thương tích cho anh H, thuộc trường hợp “tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trước đó, bị cáo đã từng 02 lần bị kết án phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”; mặc dù đã được xóa án tích nhưng thể hiện về mặt nhân thân là không tốt. Do đó, cùng với tính chất và mức độ rất nghiêm trọng của lần phạm tội này, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, cách li bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường cho bị hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc để xử phạt bị cáo một mức án phù hợp.

[5] Về vật chứng, do cơ quan điều tra không thu giữ được hung khí gây thương tích vì người nhà của bị cáo đã vứt bỏ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, do bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Trong phần luận tội, vị đại diện Viện kiểm sát đã chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo T với tội danh “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, các tình tiết đánh giá về nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phù hợp với nhận định nêu trên của Tòa án.

[8] Về án phí, bị cáo T pH chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt Trần Minh T 06 (sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 01-10-2020.

2. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Trần Minh T phải chịu án phí sơ thẩm hình sự là 200.000 đồng.

3. Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 01/2021/HS-ST

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về