TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 169/2022/HS-ST NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 117/2022/HSST-QĐ ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:
Võ Th, sinh năm 1977, tại: Phú Yên; Hộ khẩu thường trú: thôn P1, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; chỗ ở: Hẻm số x T, thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ K và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1944 (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Tuyết L (đã ly hôn), hiện sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1990, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2021.
Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Hoàng Ngọc A, sinh năm 1991, trú tại: y1 L, phường P3, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Công an xã P, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; trụ sở: Thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
* Người làm chứng:
- Ông Đoàn Văn S, sinh năm 1988, trú tại: y2 L, phường P3, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Ông Võ K, sinh năm 1942, trú tại: Hẻm số x T, thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Bà Đào Thị U, sinh năm 1971, trú tại: Thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1990, trú tại: hẻm số x T, thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Xuân Th, sinh năm 1968, trú tại: Hẻm số x T, thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
- Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1982, trú tại: thôn P2, xã P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 15 tháng 11 năm 2021, Lãnh đạo công an xã P phân công anh Đoàn Văn S và anh Hoàng Ngọc A, là các cán bộ công an xã P trực nghiệp vụ vào ngày 18 tháng 11 năm 2021.
Khoảng 22 giờ ngày 18 tháng 11 năm 2021, anh Hoàng Ngọc A nhận được tin trình báo của bà Đào Thị U về việc có người đi lang thang và nằm ngủ trên đường T, xã P, thành phố Nha Trang nên anh A tiến hành xác minh. Khi đến nơi, anh A thấy người đi trên đường T là ông Võ K, được ông K cho biết bị Võ Th (con trai ông K) đuổi ra khỏi nhà. Sau đó, anh A chở ông K về nhà của Th tại hẻm số x T, thôn P2, xã P (là nơi cư trú của ông K), yêu cầu Th mở cửa cho ông Kế vào nhà. Th không mở cửa mà đứng trong nhà chửi bới, có thái độ thách thức. Anh A điện thoại báo sự việc cho chỉ huy Công an xã xin hỗ trợ, dùng điện thoại ghi hình lại sự việc và mời Th lên trụ sở Công an xã P để làm việc. Thấy vậy, vợ của Th là Nguyễn Thị Tr đi ra mở cửa thì Th từ trong nhà đi ra dùng tay nắm cổ áo lôi anh A vào trong nhà làm đứt cúc áo ngành công an của anh A. Khi Võ Th và anh A giằng co, anh A làm rơi bể màn hình điện thoại Iphone 7 đang cầm trên tay. Lúc này, anh Đoàn Văn S (cán bộ công an xã P) điều khiển xe mô tô công vụ biển kiểm soát 79B1-001.20 đến hỗ trợ đưa Th về trụ sở. Th không hợp tác, phản kháng lại và dùng chân đạp ngã xe mô tô công vụ của Công an xã P, cản trở anh A và anh S thi hành công vụ. Sau đó, lực lượng Cảnh sát 113 đến phối hợp đưa Th về trụ sở làm việc.
Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKSNT ngày 10 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố bị cáo Võ Th về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Th từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”.
Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
Về vật chứng: Trả lại cho anh Hoàng Ngọc A một áo ngành công an nhân dân bị bứt một cúc áo hàng thứ hai từ trên xuống.
- Bị cáo Võ Th khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tại phiên tòa, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của người này không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang,Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Tại phiên tòa, bị cáo Võ Th đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 18/11/2021, tại hẻm số x T, thôn P2, xã P, thành phố N, anh Hoàng Ngọc A và anh Đoàn Văn S (cán bộ công an xã P) mời Võ Th về trụ sở Công an xã P làm việc nhưng Th không chấp hành mà dùng tay nắm cổ áo lôi kéo anh A làm bứt cúc áo quân phục ngành của anh A, đạp ngã xe máy công vụ biển kiểm soát 79B1-001.20 cản trở anh A và anh S thực hiện công vụ.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cố ý xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý hành chính, hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan Nhà nước và của người được Nhà nước giao thi hành nhiệm vụ - công vụ, làm giảm hiệu lực quản lý của cơ quan Nhà nước. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng: 01 áo ngành công an nhân dân bị bứt một cúc áo hàng thứ hai từ trên xuống là tài sản của anh Hoàng Ngọc A nên trả lại cho anh A.
[7] Về án phí:
Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Khoản 1 Điều 330; điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Võ Th 06 (sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Trả lại cho anh Hoàng Ngọc A 01 áo ngành công an nhân dân bị bứt một cúc áo hàng thứ hai từ trên xuống.
Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 04 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Bị cáo Võ Th phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 169/2022/HS-ST
Số hiệu: | 169/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về