Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 30/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PM, tỉnh BĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2253/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1999; nơi sinh xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; trú tại thôn AM, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ; nghề nghiệp thợ cắt tóc; trình độ văn hóa (học vấn) 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn L, sinh năm 1980 và bà Huỳnh Thị S, sinh năm 1978; vợ là chị Nguyễn Thị Mỹ T, sinh năm 2000 và 01 người con sinh ngày 11 tháng 02 năm 2021; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

- Ông Phạm Văn L, sinh năm 1980; có mặt.

- Bà Huỳnh Thị S, sinh năm 1978; có mặt.

Đồng trú tại: Thôn AM, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào đầu tháng 01 năm 2021, bị cáo Phạm Văn T xem trên mạng xã hội “facebook”, tình cờ bị cáo thấy có một tài khoản đăng tin bán pháo và có ghi số điện thoại để liên hệ nên bị cáo nảy sinh ý định mua pháo về bán kiếm tiền lời. Bị cáo Phạm Văn T liên lạc qua số điện thoại đăng trên tài khoản này và đã thỏa thuận mua 05 hộp pháo với số tiền 1.000.000 đồng/hộp. Khoảng 12 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2021, bị cáo đến quảng trường thị trấn PM, huyện PM để mua 05 hộp pháo của một người lạ, không rõ họ, tên, địa chỉ. Sau khi mua được 05 hộp pháo trên, bị cáo đem về nhà tại thôn AM, xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ cất giấu với mục đích để bán lại thu tiền lời. Đến khoảng 15 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2021 có một người lạ, không rõ họ, tên, địa chỉ điện thoại đến số điện thoại của bị cáo hỏi mua 04 hộp pháo với số tiền 1.100.000 đồng/hộp. Khi bị cáo chuẩn bị giao 04 hộp pháo cho người mua tại nhà bị cáo thì Công an huyện PM và Công an xã MC kiểm tra, phát hiện, lập biên bản đối với hành vi phạm tội của bị cáo và tạm giữ toàn bộ số pháo trên.

Tại Kết luận giám định số 129/C09C-Đ2 ngày 03 tháng 02 năm 2021 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố ĐN kết luận:

- 03 (ba) khối hộp (mỗi khối có kích thước 17cm x 17cm x 10cm; vỏ ngoài bọc giấy màu có in hoa văn và chữ nước ngoài; bên trong mỗi khối hộp có 49 ống giấy hình trụ tròn được liên kết với nhau) gửi giám định đều là pháo hoa nổ, tổng khối lượng là 5,2kg (năm phẩy hai kilôgam).

- 01 (một) khối hộp (kích thước 17cm x 17cm x 12cm; vỏ ngoài bọc giấy màu có in hoa văn và chữ nước ngoài; bên trong khối hộp có 49 ống giấy hình trụ tròn được liên kết với nhau) gửi giám định đều là pháo hoa nổ, khối lượng là 1,9kg (một phẩy chín kilôgam).

- 01 (một) khối hộp (kích thước 17cm x 17cm x 10cm; gồm 49 ống giấy hình trụ tròn được liên kết với nhau; bên ngoài không có nhãn gửi giám định đều là pháo hoa nổ, khối lượng là 1,68kg (một phẩy sáu mươi tám kilôgam).

Cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện PM, tỉnh BĐ truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội“Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Văn T với mức hình phạt từ 12 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên tịch thu và tiêu hủy 05 khối hộp, mỗi khối hộp có 47 vật hình trụ tròn vỏ giấy được liên kết với nhau là pháo hoa nổ.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện PM, tỉnh BĐ.

Bị cáo Phạm Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện PM, tỉnh BĐ; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện PM, tỉnh BĐ; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở kết luận với mục đích kiếm thêm tiền thu nhập nên vào khoảng 12 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2021, bị cáo Phạm Văn T mua 05 hộp pháo của một người lạ, không rõ họ, tên, địa chỉ để về bán lại. Đến khoảng 15 giờ ngày 18 tháng 01 năm 2021, bị cáo Phạm Văn T chuẩn bị bán 04 hộp pháo cho người mua tại nhà của bị cáo thì bị bắt quả tang.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Phạm Văn T là người có đủ năng lực để nhận thức được hành vi buôn bán trái phép pháo hoa nổ là hành vi nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định quản lý của Nhà nước về quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại nhưng vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân nên bị cáo thực hiện hành vi mua bán pháo hoa nổ. Hành vi mua bán pháo hoa nổ mà bị cáo đã thực hiện là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại Nghị định số 137/2020/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Chính phủ về quản lý, sử dụng pháo. Bị cáo thực hiện hành vi mua bán pháo hoa nổ có trọng lượng 8,78 kilôgam nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm quy định quản lý của Nhà nước về quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại, gây ảnh hường đến trật tự, an ninh tại địa phương.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, bị cáo có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng có thể giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; giáo dục bị cáo tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[7] Xét về hình phạt bổ sung: Tại khoản 4 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, hiện nay gia đình bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: 05 khối hộp, mỗi khối hộp có 47 vật hình trụ tròn vỏ giấy được liên kết với nhau là pháo hoa nổ là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên tuyên tịch thu và tiêu hủy.

[9] Xét về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với người bán và người mua pháo hoa nổ với bị cáo thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện PM đã điều tra, xác minh nhưng không xác định được lai lịch của những người này nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 190; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (Hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 27 tháng 5 năm 2021).

Giao bị cáo Phạm Văn T cho Ủy ban nhân dân xã MC, huyện PM, tỉnh BĐ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01 (một) bao tải màu trắng, tại miệng bao được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy trắng có hình dấu đỏ của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng và chữ ký ghi họ tên Lê Hồng Phong, Nguyễn Anh Dũng. Bên trong có 05 (năm) khối hộp (mỗi khối có 47 vật hình trụ tròn vỏ giấy được liên kết với nhau).

Các vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện PM, tỉnh BĐ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 5 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện PM, tỉnh BĐ và Chi cục thi hành án dân sự huyện PM, tỉnh BĐ.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Văn T phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 27 tháng 5 năm 2021)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 30/2021/HS-ST

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về