Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 64/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 118/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, tranh chấp cấp dưỡng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 18 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Kim T, sinh năm 1991. Hộ khẩu thường trú: Ấp B, thị trấn C, huyện Đ, Thành phố Cần Thơ. Địa chỉ tạm trú: Số X đường 73, khu phố 2, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (có đơn xin giải quyết vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông La Hoàng P, sinh năm 1983. Hộ khẩu thường trú: Số C đường Kinh Xáng, phường D, thành phố Sóc Trăng, tinh Sóc Trăng. Địa chỉ tạm trú: Số X đường 51, khu phố 2, phường P, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/3/2021 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị Kim T trình bày:

Bà Lê Thị Kim T và ông La Hoàng P là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 8, Thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Quá trính sống chung, có 03 người con chung là La Tiểu Yến L, sinh ngày 11/5/2014, La Lê Ngọc L1, sinh ngày 26/3/2016, La Hoàng T, sinh ngày 05/8/2018. Sau khi kết hôn thì bà T, ông P chuyển lên Bình Dương sinh sống và đã ở tạm trú tại địa chỉ khu phố 2, phường Phú Tân từ năm 2016 cho đến nay. Vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ lâu nhưng bắt đầu trầm trọng từ tháng 11 năm 2020. Ông P bình thường không nói chuyện nhưng cuối tuần nhậu nhẹt thì bắt đầu chửi mắng vợ con, chửi mắng gia đình bên vợ. Thời gian sau này ông P không phụ giúp bà T nuôi con, cuối năm tiền lương, tiền thưởng được hơn 60 triệu nhưng không đưa bà T đồng nào để lo cho gia đình. Bà T đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông P vẫn ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Thực tế, quá trình sống chung ông P không bạo hành gia đình, không ngoại tình với người khác nhưng vợ chồng sống chung mà bà T không được tôn trọng, thường xuyên bị xem thường, chửi mắng, vợ chồng đã không còn tiếng nói chung, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Từ ngày 10/4/2021, bà T đã dọn ra ngoài sống cùng cháu Ngọc L1, cháu Hoàng T, còn cháu Yến L thì ông P không cho bà T dẫn đi theo. Bà T đã cố gắng vì con mà kéo dài cuộc sống hôn nhân với ông P nhưng hiện nay bà T không thể tiếp tục nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông La Hoàng P. Về con chung thì bà T yêu cầu được nuôi cả 3 con, yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng/tháng. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là ông La Hoàng P: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập tham gia phiên họp nhưng ông P không đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng không gửi ý kiến bằng văn bản phản đối yêu cầu ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng theo yêu cầu của bà T. Tòa án ban hành và tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng ông P cũng không đến Tòa án tham gia phiên tòa sơ thẩm.

Ngày 28/5/2021, nguyên đơn bà Lê Thị Kim T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và quy định tại Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ, đúng các quy định pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có kiến nghị sửa chữa, bổ sung gì về phần thủ tục. Về nội dung, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn, nuôi con và cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn bà Lê Thị Kim T khởi kiện tranh chấp yêu cầu được ly hôn với bị đơn ông La Hoàng P. Bị đơn ông La Hoàng P có đăng ký tạm trú và nơi làm việc tại phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Căn cứ theo quy định pháp luật thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Lê Thị Kim T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn ông La Hoàng P vắng mặt lần 2. Do đó, căn cứ Điều 228, Khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2] Về nội dung:

Bà Lê Thị Kim T và ông La Hoàng P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND phường 8, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận kết hôn số 129, quyển số 01/2013 ngày 13/11/2013 nên quan hệ hôn nhân giữa hai người là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Bà T yêu cầu được ly hôn với ông P vì cho rằng trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp nhau, thiếu sự tôn trọng, quan tâm. Trong sinh hoạt gia đình, ông P hay lớn tiếng chửi mắng vợ và gia đình bên vợ nên vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Quá trình giải quyết, ông P mặc dù đã được thông báo về việc bà T có yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng tại Tòa án nhưng ông P không có T chí hàn gắn tình cảm gia đình, vắng mặt và không có văn bản phản hồi ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của bà T hoặc có đơn trình bày lý do bất khả kháng để không đến Tòa án tham gia tố tụng. Xét thấy, bà T cho rằng cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn và không có nguyện vọng muốn hàn gắn tình cảm gia đình. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Bà T và ông P có 03 người con chung là La Tiểu Yến L, sinh ngày 11/5/2014, La Lê Ngọc L1, sinh ngày 26/3/2016, La Hoàng T, sinh ngày 05/8/2018. Bà T xác định hiện nay cháu L đang sinh sống cùng với ông P. Bà T đã nhiều lần yêu cầu ông P mang cháu L đến Tòa án để tiến hành ghi nhận nguyện vọng của cháu L sau khi ông P và bà T ly hôn thì cháu L sẽ ở với ai nhưng ông P không đồng ý. Quá trình giải quyết vụ án, bà T đồng ý giao cháu L cho ông P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử chấp nhận, giao cháu L cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu La Lê Ngọc L1, sinh ngày 26/3/2016, La Hoàng T, sinh ngày 05/8/2018 hiện đang sinh sống cùng bà T và bà T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu L1, cháu T cho bà T nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà T yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng/con cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Xét thấy, nguyên đơn bà T trực tiếp nuôi dưỡng cháu La Lê Ngọc L1; bị đơn ông P trực tiếp nuôi dưỡng cháu La Tiểu Yến L. Xét về vấn đề trách nhiệm nuôi con thì bà T và ông P đã tương đương nhau. Do đó, đối với yêu cầu của bà T về việc yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi cháu La Lê Ngọc L1 mỗi tháng 2.000.000 đồng là không có căn cứ chấp nhận. Đối với cháu La Hoàng T do bà T trực tiếp nuôi dưỡng và bà T yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Xét bản xác nhận lương của ông La Hoàng P tại Công ty TNHH Astro Engineering Việt Nam tổng lương cơ bản 3 tháng liền kề là tháng 6 thực lãnh là 18.582.379 đồng, tháng 7 thực lãnh 13.834.964 đồng và lương tháng 8 năm 2021 thực lãnh là 9.361.397. Căn cứ vào mức lương của ông P có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu ông P có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng đối với cháu T.

Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do đương sự không có yêu cầu.

Từ những nhận định trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn.

Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Lê Thị Kim T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, bị đơn ông La Hoàng P phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, các Khoản 4 Điều 147, Điều 235, Điều 228, Khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 55, 57, 58, 59, 81, 82, 83, 84, 116 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim T đối với ông La Hoàng P về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kim T được ly hôn đối với ông La Hoàng P.

- Về con chung:

Bà Lê Thị Kim T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên La Lê Ngọc L1, sinh ngày 26/3/2016, cháu La Hoàng T, sinh ngày 05/8/2018.

Ông La Hoàng P được trực tiếp nuôi dưỡng cháu La Tiểu Yến L, sinh ngày 11/5/2014.

Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con:

+ Ông La Hoàng P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con La Hoàng T, sinh ngày 05/8/2018 mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Vì lợi ích hợp pháp của con chung, khi đương sự có yêu cầu Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng nuôi con sau này nếu cần thiết.

Bà Lê Thị Kim T và ông La Hoàng P có quyền, nghĩa vụ qua lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Lê Thị Kim T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào toàn bộ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0051257 ngày 29/3/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

- Ông La Hoàng P phải chịu 300.000 đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo luật định./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 64/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về