Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã B, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 224/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 23/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thượng Thị Như N, sinh năm 1980; thường trú tại: Tổ 1, khu phố B, phường H, thị xã B, tỉnh B; vắng mặt theo đơn xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1988; thường trú tại: Tổ 1, khu phố B, phường H, thị xã B, tỉnh B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong Đơn khởi kiện đề ngày 10/3/2022 và lời khai trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà N trình bày:

Về hôn nhân: Bà N và ông T đăng ký kết hôn vào ngày 27/7/2015 tại UBND phường H, thị xã B, tỉnh B. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách không hợp nhau. Từ tháng 3/2020 hai vợ chồng bắt phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Bà N và ông T đã ly thân và không còn sống chung từ năm cuối tháng 3/2021 cho đến nay. Bà N nhận thấy cuộc hôn nhân này không thể nào hàn gắn được. Thiết nghĩ mục đích hôn nhân không đạt được, tình nghĩa vợ chồng không còn nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông Tiền.

Trong thời kỳ hôn nhân, bà N và ông T có 01 người con tên: Trần Minh H, sinh ngày 12/4/2015. Bà N yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người con chung tên: Trần Minh H, sinh ngày 12/4/2015 và không yêu cầu ông T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Những chứng cứ, tài liệu nguyên đơn đã cung cấp: CCCD của bà N, sô hô khâu (bản sao có chứng thực); giấy chứng nhận kết hôn (bản sao có chứng thực); giấy khai sinh của cháu H (bản sao có chứng thực); Biên bản giao nhận (bản chính); Bản tự khai của bà N; đơn từ chối hoà giải (bản chính); đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt (bản chính).

* Bị đơn ông Trần Văn T trình bày: Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ, tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, ông T không chấp hành theo giấy triệu tập, vắng mặt không có lý do. Ông T không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà N và không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào cho Tòa án.

* Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã B tham gia phiên toà:

- Về tố tụng: Việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ là đúng theo quy định, những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và không yêu cầu bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung thì không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Bị đơn đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với bị đơn nên quan hệ pháp luật trong vụ án này được xác định là: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có đăng ký hộ khẩu tại: Tổ 1, khu phố B, phường H, thị xã B, tỉnh B nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc về Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B.

[3] Về việc xét xử vắng mặt:

Nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

Bị đơn đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ và tham gia phiên tòa nhưng bị đơn đều vắng mặt. Việc vắng mặt của bị đơn không vì lý do bất khả kháng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[4] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà N và ông T đăng ký kết hôn vào ngày 27/7/2015 tại UBND phường H, thị xã B, tỉnh B theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70/2015. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Như vậy, hôn nhân giữa bà N và ông T là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình tố tụng, bà N xác định giữa bà N và ông T đã phát sinh mâu thuẫn vợ chồng đã lâu, không thể hàn gắn được. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cãi vả, xô xát nhau. Vợ chồng bà N, ông T đã ly thân, mỗi người có cuộc sống riêng, không ai quan tâm chăm sóc cho ai từ tháng 3/2021 cho đến nay. Hiện tại, bà N xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn.

Quá trình tham gia tố tụng, bị đơn ông T không tham gia và cũng không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó, xem như bị đơn từ bỏ quyền chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn không còn hạnh phúc. Nguyên đơn xác định vợ chồng đã ly thân, không còn quan tâm chăm sóc nhau, nguyên đơn xác định không còn tình cảm với bị đơn. Bị đơn mặc dù được Toà án tống đạt hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên hòa giải đoàn tụ, tham gia phiên tòa, bị đơn đã nhận nhưng đều không tham gia tố tụng và không có văn bản trình bày ý kiến. Điều này cho thấy ông T không có thiện chí hoà giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng, không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân giữa bà N và ông T đã trầm trọng, đời sống hôn nhân không thê keo dai, mục đích hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà N và ông T có 01 người con tên: Trần Minh H, sinh ngày 12/4/2015. Theo đơn khởi kiện bà N yêu cầu được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc người con chung tên: Trần Minh H, sinh ngày 12/4/2015 và không yêu cầu ông T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét, các cháu H đang sinh sống ổn định với mẹ là nguyên đơn, cuộc sống ổn định. Nguyên đơn tuy làm việc tự do nhưng có nguồn thu nhập ổn định và có điều kiện chăm sóc, giáo dục cho con. Nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con. Toà án ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở bị đơn thực hiện các quyền, nghĩa vụ này. Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn và bị đơn đều không có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở và phù hợp với quy định của pháp luật có căn cứ chấp nhận.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngay 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Thượng Thị Như N về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Trần Văn Tiền.

- Vê hôn nhân: Bà Thượng Thị Như N được ly hôn với ông Trần Văn T.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Minh H, sinh ngày 12/4/2015 cho bà Thượng Thị Như N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trần Văn T có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở ông T thực hiện các quyền, nghĩa vụ này.

Khi cần thiết, vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên đều có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Thượng Thị Như N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) T án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào T tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tại Biên lai thu T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0004910 ngay 10/3/2022 của Chi cuc Thi hanh an dân sư thị xã Bến Cát.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về