TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 92/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 24 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 120/2021/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 03 năm 2021, về việc: “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 130/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/8/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1995.
Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Chỗ ở hiện nay: khu phố 7, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Anh Trịnh Đình N, sinh năm 1992.
Hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 8, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk;
Chỗ ở hiện nay: khu phố 7, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày có nội dung như sau:
Chị Nguyễn Thị D và anh Trịnh Đình N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 26/12/2014.
Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, tình cảm vợ chồng không còn và không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Sau đó thì mâu thuẫn phát sinh căng thẳng và sống ly thân mỗi người một nơi cho đến nay. Nay chị D xác định không còn tình cảm với anh N nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị D được ly hôn với anh N.
Về con chung: Chị D và anh N có một con chung là Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015. Hiện cháu T đang ở với chị D nên chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu T cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai, văn bản trình bày ý kiến, bị đơn anh Trịnh Đình N trình bày có nội dung sau:
Anh Trịnh Đình N và chị Nguyễn Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 26/12/2014.
Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng đã cố gắng khắc phục nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được nên dẫn đến vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Sau đó thì mâu thuẫn phát sinh căng thẳng và sống ly thân mỗi người một nơi cho đến nay. Nay chị D xác định không còn tình cảm với với anh N nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh N, thì anh N đồng ý ly hôn và không có ý kiến gì.
Về con chung: Anh N và chị D có một con chung là Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015. Anh N đồng ý để cho chị D được trực tiếp nuôi cháu T cho đến khi đủ 18 tuổi.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Anh N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, khoản 1 Điều 227, Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D xin ly hôn anh Trịnh Đình N.
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Trịnh Đình N.
Về con chung: Giao cháu Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015 cho chị Nguyễn Thị D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên.
Anh Trịnh Đình N được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn chị D phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.
[1]. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn anh Trịnh Đình N có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp.
[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh N lấy nhau trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ngày 26/12/2014, là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, dù vợ chồng đã cố gắng khắc phục nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không thể hàn gắn được nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Sau đó mâu thuẫn phát sinh căng thẳng và vợ chồng sống ly thân, sau khi ly thân chị D trở về sinh sống tại phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương còn anh N sinh sống tại phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, không ai quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên chị D xin được ly hôn với anh Trịnh Đình N.
Anh Trịnh Đình N xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được nữa, nay chị D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh N thì anh N xác định, anh N không còn tình cảm với chị D nữa nên anh N đồng ý ly hôn với chị D.
Xét mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa chị D và anh N đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì cuộc sống chung thì không có hạnh phúc, nay chị D và anh N đều xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đều có nguyện vọng đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn, nên cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị D và anh N là phù hợp với Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4]. Về con chung: Hiện nay chị D đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015 và chị D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T. Anh N cũng đồng ý để cho chị D được trực tiếp nuôi dưỡng cháu T cho đến khi khi đủ 18 tuổi, vì vậy giao con chung là Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015, cho chị D trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.
Anh N có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.
Việc cấp dưỡng nuôi con chung: Chị D không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.
[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.
[6]. Về án phí: Chị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, khoản 1 Điều 227, Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị D xin ly hôn anh Trịnh Đình N.
Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Trịnh Đình N.
Về con chung: Giao con chung là Trịnh Nguyễn Khánh T, sinh ngày 23/10/2015, cho chị Nguyễn Thị D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ tuổi thành niên.
Anh N được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc thuận tình ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương theo biên lai thu số AA/2016/0051023 ngày 28/12/2020.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niếm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thị hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và nuôi con chung số 92/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 92/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về