TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y; ĐKTT: Thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; cư trú tại thôn K, xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Lưu Văn T; ĐKTT: Thôn D, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; cư trú tại thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có lời khai đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tại các bản tự khai, trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Y trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T chung sống với nhau do tự nguyện và được gia đình hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục truyền thống từ năm 2007. Đến ngày 06 tháng 11 năm 2008, chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T mới làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống tại thôn D, xã L; đến khoảng năm 2011 thì chuyển đến sống ở thôn T, xã A. Quá trình chung sống, hai bên hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do anh Lưu Văn T có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác dẫn đến bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nên thường xuyên xảy ra va chạm, cãi chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình khuyên ngăn, hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả mà ngày càng căng thẳng, trầm trọng và không còn khả năng khắc phục. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ cuối năm 2021, chị Nguyễn Thị Y đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ ở thôn K, xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang sống ly thân với anh Lưu Văn T; hiện tại vợ chồng không ai quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Nguyễn Thị Y xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lưu Văn T.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung Lưu Thị Ngọc A - sinh ngày 29 tháng 9 năm 2008; Lưu Gia B - sinh ngày 07 tháng 11 năm 2010 và Lưu Thị Như Y1 - sinh ngày 02 tháng 10 năm 2019; con chung hiện do anh Lưu Văn T đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị Nguyễn Thị Y đề nghị Tòa án giao các con chung cho anh Lưu Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T tự thỏa thuận, tạm thời không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Y không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 18 tháng 4 năm 2022, bị đơn, anh Lưu Văn T trình bày: Về thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, địa điểm vợ chồng chung sống như chị Nguyễn Thị Y đã trình bày là đúng. Trong thời gian chung sống, vợ chồng không phát sinh mâu thuẫn nhưng đến ngày 21 tháng 12 năm 2021 thì chị Nguyễn Thị Y đã bỏ về nhà bố, mẹ đẻ sống. Nguyên nhân chị Y bỏ đi như thế nào, anh Lưu Văn T không được biết. Sau khi chị Y bỏ đi, vợ chồng không có sự quan tâm, liên hệ gì với nhau. Nay chị Nguyễn Thị Y xin ly hôn, anh Lưu Văn T đồng ý, đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung như chị Nguyễn Thị Y trình bày là đúng. Ly hôn anh Lưu Văn T đề nghị được nuôi cả 03 con chung; việc cấp dưỡng nuôi con do anh Lưu Văn T và chị Nguyễn Thị Y tự thỏa thuận, tạm thời không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản: Anh Lưu Văn T không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:
- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51, 55, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình, xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T. Về con chung, giao các con chung Lưu Thị Ngọc A - sinh ngày 29 tháng 9 năm 2008; Lưu Gia B - sinh ngày 07 tháng 11 năm 2010 và Lưu Thị Như Y1 - sinh ngày 02 tháng 10 năm 2019 cho anh Lưu Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con và về tài sản chung: Do đương sự tạm thời không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền xét xử vụ án và việc xét xử vắng mặt của các đương sự: Bị đơn, anh Lưu Văn T có nơi cư trú thôn T, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện A. Chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các đương sự, các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T kết hôn với nhau do tự nguyện, có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang vào ngày 06 tháng 11 năm 2008. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp; hiện tại đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình cần xử công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T có 03 con chung Lưu Thị Ngọc A - sinh ngày 29 tháng 9 năm 2008; Lưu Gia B - sinh ngày 07 tháng 11 năm 2010 và Lưu Thị Như Y1 - sinh ngày 02 tháng 10 năm 2019. Ly hôn chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T đều có quan điểm đề nghị Tòa án giao các con chung cho anh Lưu Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con sẽ do các đương sự tự thỏa thuận, tạm thời không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy quan điểm các đương sự đưa ra là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của các con chung nên được chấp nhận. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
[4] Về tài sản: Do các đương sự không có yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết. Nếu các bên đương sự có tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con chung hoặc về tài sản, Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi đương sự có yêu cầu.
[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147 và 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;
- Căn cứ các điều 51, 55, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T.
2. Về con chung: Giao các con chung Lưu Thị Ngọc A - sinh ngày 29 tháng 9 năm 2008; Lưu Gia B - sinh ngày 07 tháng 11 năm 2010 và Lưu Thị Như Y1 - sinh ngày 02 tháng 10 năm 2019 cho anh Lưu Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung do các đương sự tạm thời không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.
Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản: Tòa án không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải nộp 75.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Chị Nguyễn Thị Y đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0004105 ngày 28 tháng 02 năm 2022) nên trả lại cho chị Nguyễn Thị Y 225.000 đồng.
Anh Lưu Văn T phải nộp 75.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.
Các đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn số 35/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 35/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về