TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HN, TỈNH BĐ
BẢN ÁN 84/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON.
Ngày 22 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HN tỉnh BĐ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 86/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Ng H M, sinh năm 1998 Địa chỉ: Thôn LD, xã HM, thị xã HN, tỉnh BĐ.
2. Bị đơn: Anh Đ V Đ, sinh năm 1996 Địa chỉ: Thôn LD, xã HM, thị xã HN, tỉnh BĐ.
(Chị Mcó mặt, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Ng H M trình bày:
Vợ chồng chị tự nguyện kết hôn có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã HM ngày 16/6/2016. Trong thời gian chung sống mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân là tính tình không hợp, anh Đ ham chơi cờ bạc, không có trách nhiệm với vợ con nên vợ chồng thường hay cãi vã, đánh đập lẫn nhau. Vì không chịu đựng được nên chị bỏ về nhà cha mẹ ruột ở từ tháng 07/2020 cho đến nay và kể từ đó vợ chồng sống xa cách nhau không ai quan tâm gì đến ai. Nay chị thấy vợ chồng sống không hạnh phúc, chị yêu cầu được ly hôn. Chị và anh Đ có 01 con chung là cháu Đ Ng Th Tr - sinh ngày 01/9/2014. Sau ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con như từ bấy lâu nay và không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn:
Anh Đ V Đ vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong quá trình tố tụng anh Đ khai: Vợ chồng tự nguyện kết hôn có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã HM ngày 16/6/2016. Trong thời gian chung sống mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân là do trước đây anh ham chơi nên vợ chồng thường hay cãi vã, đánh đập lẫn nhau.
Khoảng tháng 7/2020 chị M có nói với anh, để chị dẫn con vào Cà Ná (tỉnh Bình Thuận) đi làm kiếm thêm thu nhập, còn anh thì đi biển, lo làm ăn, sửa đổi tính tình. Vì còn yêu thương vợ con, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ về chung sống với nhau, làm ăn nuôi con, anh không đồng ý ly hôn. Anh và chị M có 01 con chung là cháu Đ Ng Th Tr - sinh ngày 01/9/2014. Nếu chị M cương quyết ly hôn thì việc nuôi con chung anh cũng không tranh chấp gì. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của chị M được ly hôn anh Đ. Giao cháu Tr cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung không yêu cầu giải quyết. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình chị Mơ phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo qui định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Đoàn có địa chỉ cư trú tại thôn LD, xã HM, thị xã HN, tỉnh BĐ. Do đó Tòa án nhân dân thị xã HN thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo qui định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Bị đơn anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt.
Về nội dung:
[1] Chị M và anh Đtự nguyện kết hôn có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã HM ngày 16/6/2016 là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân là tính tình không hợp, anh Đ ham chơi cờ bạc nên vợ chồng thường hay cãi vã, đánh đập lẫn nhau, rồi chị M bỏ về nhà cha mẹ vợ ở tại Cà Nà (tỉnh Bình Thuận) từ tháng 7/2020 cho đến nay và kể từ đó vợ chồng sống xa cách nhau không ai quan tâm gì đến ai, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng gay gắt, tình trạng hôn nhân lâm vào trầm trọng, đời sống chung không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Từ những tình tiết và chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M được ly hôn anh Đ là có căn cứ và đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Chị M và anh Đ có 01 con chung là cháu Đ Ng Th Tr, sinh ngày 01/9/2014. Sau ly hôn chị M yêu cầu được nuôi cháu Tr như từ bấy lâu nay, không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con và yêu cầu này anh Đcũng không có tranh chấp gì. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M, giải quyết giao cháu Tr cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Mkhông yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con là có căn cứ và đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sung vào ngân sách nhà nước là đúng với quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81 và các Điều 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 ngày 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chị Ng H M và anh Đ V Đ được ly hôn.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Đ Ng Th Tr - sinh ngày 01/9/2014 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện nuôi con của chị M không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh Đ có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ng H M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) sung vào ngân sách nhà nước. Chị M đã tạm ứng đủ theo biên lai thu số 0000090 ngày 02/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã HN, được tính trừ.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã HM, để Toà án nhân dân tỉnh BĐ xét xử theo trình tự phúc thẩm.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 84/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 84/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về