Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 78/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 78/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 136/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Mỹ T; sinh năm 1996; thường trú: huyện Đ, tỉnh Bình Thuận; tạm trú: Tổ 15, khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Hoàng Thanh L; sinh năm 1994; thường trú: huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; tạm trú: Tổ 15, khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Chị Võ Thị Mỹ T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, theo đơn khởi kiện ngày 04 tháng 3 năm 2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án chị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L sau thời gian tìm hiểu nhau thì tự nguyện tiến tới hôn nhân năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cù Bị, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 30 tháng 10 năm 2015, Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 01/2015. Sau kết hôn hai vợ chồng về sống chung tại nhà số Tổ 15, khu phố Tân Hòa, phường Đông Hòa, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Thời gian đầu sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong lối sống và sinh hoạt, anh L không quan tâm đến vợ con nên cuộc sống gia đình trở nên căng thẳng. Từ tháng 3 năm 2021 đến nay vợ chồng sống ly thân, chị T đã chuyển về quê tại tỉnh Bình Thuận sinh sống.

Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Hoàng Thanh L.

Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Hoàng Anh D, sinh ngày 15/03/2018. Con còn nhỏ và hiện nay đang ở với mẹ tại Thôn 7, xã Đa Kai, huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận. Sau khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh Hoàng Thanh L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn anh Hoàng Thanh L đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện do nguyên đơn cung cấp và yêu cầu anh Hoàng Thanh L có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ T nhưng anh Hoàng Thanh L không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Hoàng Thanh L đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 11/5/2021 nhưng anh L vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của chị T.

- Ngày 06/5/2021 Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường Đông Hòa và được cung cấp như sau: Chị Võ Thị Mỹ T không phải là hội viên hội phụ nữ phường. Trước khi khởi kiện ly hôn tại Tòa án, chị T không có yêu cầu địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Hội Liên hiệp phụ nữ phường Đông Hòa cũng không có tiếp nhận thông tin cung cấp từ đại diện khu phố cũng như người dân phản ảnh. Vì vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Đông Hòa không rõ nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L. Đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án theo quy định.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Hoàng Thanh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 30/6/2021 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cù Bị, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào ngày 30 tháng 10 năm 2015, Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 01/2015 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Chị Võ Thị Mỹ T cho rằng quá trình chung sống anh Hoàng Thanh L và chị không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau khiến cho cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Vì vậy, chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên yêu cầu Tòa án không hòa giải đoàn tụ. Anh Hoàng Thanh L, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập anh L đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh không có mặt và cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn, điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị T yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của chị Võ Thị Mỹ T.

[3] Về con chung: Chị Võ Thị Mỹ T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hoàng Anh D sinh ngày 15/03/2018, quá trình cha mẹ sống ly thân cháu D do chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, cháu D còn đang rất nhỏ, cần được sự chăm sóc, quan tâm để phát triển tốt nhất. Quá trình tố tụng tại Tòa án, anh Hoàng Thanh L vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con chung, để bảo đảm quyền lợi của phụ nữ và con khi ly hôn, việc giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của chị T về việc được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án chị Võ Thị Mỹ T tự nguyện không yêu cầu anh Hoàng Thanh L phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của chị T là hoàn toàn tự nguyện cần được ghi nhận.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về việc giải quyết vụ án.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Chị Võ Thị Mỹ T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Mỹ T được ly hôn với anh Hoàng Thanh L (Giấy chứng nhận kết hôn số 105/2015, quyển số 01/2015 do Ủy ban nhân dân xã Cù Bị, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp ngày 30 tháng 10 năm 2015).

2 Về con chung: Chị Võ Thị Mỹ T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Hoàng Anh D, sinh ngày 15/3/2018. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Võ Thị Mỹ T không yêu cầu anh Hoàng Thanh L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, chị Võ Thị Mỹ T và anh Hoàng Thanh L có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Chị Võ Thị Mỹ T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0049429 ngày 23/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 78/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:78/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về