Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 73/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 73/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 99/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lý Thị Chúc Lh, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1992 (có mặt);

Địa chỉ: ấp TT, xã TQ, huyện GQ, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp L, xã HY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 20/4/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Lý Thị Chúc Lh trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Nguyễn Văn L quen biết nhau, chung sống vào năm 2012, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã TQ, huyện GQ, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 20/8/2018. Thời gian chung sống chị với anh Nguyễn Văn L có được 01 người con chung tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013, hiện nay đang sống chung với chị; về tài sản chung không có tranh chấp; về nợ chị và anh Nguyễn Văn L không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Văn L không hòa hợp, anh Nguyễn Văn L không lo cho vợ con, gia trưởng trong gia đình, vợ chồng thường xuyên bất đồng trong công việc trong gia đình và cự cãi với nhau, sống không hạnh phúc, chị và anh Nguyễn Văn L đã ly thân từ tháng 3/2019 đến nay. Chị thấy không còn tình cản vợ chồng với anh Nguyễn Văn L nên chị yêu cầu giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng người con chung tên: Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con, chị không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, không có, chị không yêu cầu giải quyết phần chia tài sản chung, chị không yêu cầu giải quyết, ngoài ra không yêu cầu gì khác.

* Tại bản trình bày nguyện vọng ngày 12/8/2022 của Nguyễn Thị Thúy V trình bày:

Nguyễn Thị Thúy V là con của anh Nguyễn Văn L và chị Lý Thị Chúc Lh, từ khi anh Nguyễn Văn L và chị Lý Thị Chúc Lh không chung sống với nhau thì Nguyễn Thị Thúy V chung sống với mẹ là chị Lý Thị Chúc Lh, tại ấp TT, xã TQ, huyện GQ, tỉnh Kiên Giang. Nếu cha mẹ ly hôn, Nguyễn Thị Thúy V có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Lý Thị Chúc Lh.

* Tại các biên bản xác minh ngày 27 tháng 6 năm 2022, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

Anh Nguyễn Văn L và chị Lý Thị Chúc Lh, cư trú tại ấp L, xã HY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang chung sống với nhau được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn, sống không hòa hợp, hôn nhân không hạnh phúc.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn L: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Nguyễn Văn L nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Lý Thị Chúc Lh nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Căn cước công dân Lý Thị Chúc Lh và sổ hộ khẩu; Giấy chứng nhận kết hôn Lý Thị Chúc Lh và Nguyễn Văn L; Trích lục khai sinh tên Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013; Văn bản trình bày nguyện vọng ngày 12 tháng 8 năm 2022 của Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013; các Biên bản xác minh ngày 27/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện An Biên.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Lý Thị Chúc Lh yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L; về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên: Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 06/02/2011, chị không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ không có, chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn L vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Lý Thị Chúc Lh yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L và nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị cho chị Lý Thị Chúc Lh được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Về quan hệ con chung, khi ly hôn giao người con chung của anh chị cho chị Lý Thị Chúc Lh tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con anh chị. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ, chị Lý Thị Chúc Lh không yêu cầu, tự xác định và cam kết không có tài sản chung, không tranh chấp và không có nợ, chị không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Lý Thị Chúc Lh yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L và tranh chấp về nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Văn L cư trú tại ấp L, xã HY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn L biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Lý Thị Chúc Lh khởi kiện ly hôn và nuôi con đối với anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Văn L vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nguyễn Văn L nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai chị Lý Thị Chúc Lh không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Văn L theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Lý Thị Chúc Lh và anh Nguyễn Văn L chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã TQ, GQ, Kiên Giang) và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 167 ngày 20 tháng 8 năm 2018, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét khởi kiện của chị Lý Thị Chúc Lh được ly hôn với anh Nguyễn Văn L, thời gian chung sống chị và anh Nguyễn Văn L không hòa hợp, anh Nguyễn Văn L không lo cho vợ con, gia trưởng trong gia đình, vợ chồng thường xuyên bất đồng trong công việc trong gia đình và cự cãi với nhau, sống không hạnh phúc, chị và anh Nguyễn Văn L đã ly thân từ tháng 3/2019 đến nay, chị thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Nguyễn Văn L không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L, nhưng anh Nguyễn Văn L không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Lý Thị Chúc Lh yêu cầu ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Lý Thị Chúc Lh cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Chúc Lh, cho chị Lý Thị Chúc Lh được ly hôn với anh Nguyễn Văn L là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị Lý Thị Chúc Lh và anh Nguyễn Văn L có 01 người con chung tên: Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013 hiện nay đang chung sống với chị Lý Thị Chúc Lh. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con anh chị, anh Nguyễn Văn L không có ý kiến gì. Hội đồng xét xử thấy rằng, con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay sống chung với chị Lý Thị Chúc Lh đã ổn định thích nghi với cuộc sống hiện tại, có ý kiến nguyện vọng chung sống với chị Lý Thị Chúc Lh. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Lý Thị Chúc Lh và nguyện vọng của con anh chị, giao con chung của anh chị tên: Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 06/02/2011 cho chị Lý Thị Chúc Lh tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con anh chị là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị Lý Thị Chúc Lh không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ, chị Lý Thị Chúc Lh tự xác định, anh chị không có tranh chấp và chị Lý Thị Chúc Lh cam kết chị và anh Nguyễn Văn L không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lý Thị Chúc Lh được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung của anh chị tên: Nguyễn Thị Thúy V, sinh ngày 26/11/2013 cho chị Lý Thị Chúc Lh tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của con anh chị và hiện nay đang sống chung với chị Lý Thị Chúc Lh.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lý Thị Chúc Lh không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Chị Lý Thị Chúc Lh tự xác định, anh chị không có tranh chấp và chị Lý Thị Chúc Lh cam kết chị và anh Nguyễn Văn L không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

5. Về án phí: Buộc chị Lý Thị Chúc Lh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004856 ngày 23 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Lý Thị Chúc Lh đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 30/9/2022. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 73/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:73/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về