Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 60/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 144/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị S; Sinh năm: 1999 (1998) Địa chỉ: Xóm 1, xã B, huyện L, tỉnh Hòa Bình.

Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

-Bị đơn: Anh Đỗ Xuân T; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30/6/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, chị Bùi Thị S trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Đỗ Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 13/9/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận được 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống, không tin tưởng nhau nên thường xuyên sảy ra cãi vã. Tình trạng trên kéo dài khiến chị cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không hòa hợp được. Hiện tại, chị và anh T đã sống ly thân được 03 năm, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống được nữa nên đề nghị TAND huyện Thạch Thành giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Đỗ Hoàng Gia B, sinh ngày 07/11/2016. Hiện nay, cháu đang ở với anh T và ông bà nội. Ly hôn, chị S yêu cầu được giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T mỗi tháng là 1.000.000đ cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi. Hiện tại chị không có việc làm, đang ở chung với bố mẹ nên chỉ có thể cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T ở mức là 1.000.000đ/tháng.

Về tài sản: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai đề ngày 02/7/2021 và trong các phiên hòa giải, anh Đỗ Xuân T trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Bùi Thị S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 13/9/2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống, nên đôi lúc sảy ra cãi cọ và đã có lần dẫn đến đánh đập lẫn nhau. Chị S đã về nhà bố mẹ đẻ từ năm 2018 đến nay và vợ chồng ly thân từ đó. Anh đã tìm lên nhà ngoại để khuyên chị S quay về để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị S không về. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, mặt khác anh không muốn con cái phải thiếu thốn tình cảm của bố mẹ nên anh không muốn ly hôn với chị S, anh đề nghị được đoàn tụ.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Đỗ Hoàng Gia B, Sinh ngày 07/11/2016. Nếu chị S nhất quyết ly hôn, anh đề nghị được trực tiếp nuôi con và cũng đồng ý với mức cấp dưỡng mà chị S đề nghị là 1.000.000đ/tháng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị S được ly hôn anh Đỗ Xuân T; Về con chung: Giao cháu Đỗ Hoàng Gia B, sinh ngày 07/11/2016 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị S cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng) cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết. [2]. Về việc sai lệch ngày, tháng, năm sinh của chị S (Theo chứng minh nhân dân và Sổ hộ khẩu, chị S sinh ngày 26/02/1999 còn theo Giấy chứng nhận kết hôn là 19/3/1998). Nguyên nhân là do có sai sót trong quá trình đăng ký kết hôn, việc này đã được UBND xã T xác nhận, chị S sinh ngày 26/02/1999 và chị S sinh ngày 19/3/1998 là cùng một người.

[3]. Tại phiên tòa hôm nay, chị S vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 238 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị S và anh T.

[4]. Về hôn nhân: Chị Bùi Thị S và anh Đỗ Xuân T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 13/9/2016 và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống, không tin tưởng nhau trong chuyện tình cảm vợ chồng nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Chị S và anh T đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay, không còn quan hệ tình cảm. Việc này, cả chị S và anh T đều thừa nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Bùi Thị S được ly hôn anh Đỗ Xuân T.

[5]. Về con chung: Vợ chồng có một con chung. Ly hôn, chị S và anh T đều thống nhất giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị S và anh T.

[6]. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Ly hôn, chị S đề nghị cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T mỗi tháng là 1.000.000đ, anh T cũng đồng ý. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu của chị S và anh T, chị S cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng) là phù hợp.

[7]. Về tài sản: Chị S và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[8]. Về án phí: Chị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5; Điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị S và anh Đỗ Xuân T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Hoàng Gia B, sinh ngày 07/11/2016 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chị S có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng từ tháng 8 năm 2021 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi hoặc đến khi các đương sự có yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng khác.

Khoản tiền cấp dưỡng nuôi con được thi hành ngay mặc dù bản án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Chị S có quyền qua lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con. Chị S đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2018/0003191 ngày 02/7/2021, chị S còn phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Bùi Thị S và anh Đỗ Xuân T. Chị S và anh T có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 60/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về