Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 43/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 478/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị L, sinh năm 1991; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 5, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố Thắng Lợi, thị trán M, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn 5, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17 tháng 11 năm 2021, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị L trình bày:

Chị kết hôn với anh T vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng ngày 26 tháng 02 năm 2019. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 5, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp và do anh T thường xuyên uống rượu và không chịu lao động làm ăn nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh T đã được gia đình khuyên giải nhưng không thành. Chị L đã về nhà bố mẹ đẻ ở tổ dân phố Thắng Lợi, thị trấn M, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng sống từ tháng 10 năm 2020 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị L khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019. Hiện nay chị L đang trực tiếp nuôi con chung và từ khi vợ chồng sống ly thân nhau từ tháng 10 năm 2020 đến nay chị L vẫn trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn chị L yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung tên B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 12 tháng 01 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bị đơn là anh T trình bày:

Anh kết hôn với chị L vào năm 2018 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào năm 2019. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 5, xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp và do anh uống rượu nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Chị L đã về nhà bố mẹ đẻ ở thị trấn M, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng sống từ tháng 10 năm 2020 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị L yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn anh, anh T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa anh và chị L không còn nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019. Hiện nay chị L đang trực tiếp nuôi con chung. Khi ly hôn anh T yêu cầu Toà án giải quyết giao con chung tên B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Anh T không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; nguyên đơn là chị L và bị đơn là anh T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án . Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh chị L và anh T. Về con chung: Giao con chung tên B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 26 tháng 02 năm 2019 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị L và anh T chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo do tính tình vợ chồng không hòa hợp và do anh T thường xuyên uống rượu, không chịu khó lao động làm ăn nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã được gia đình hoà giải nhưng không thành. Vợ chồng chị L và anh T đã sống ly thân nhau từ tháng 10 năm 2020 đến nay. Như vậy thể hiện hôn nhân giữa chị L và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nay chị L khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T, anh T đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L. Xét việc thuận tình ly hôn của chị L và anh T là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Luật Hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận, công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị L và anh T.

[3] Về con chung: Chị L và anh T có 01 con chung tên B sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019. Khi ly hôn chị L và anh T đều yêu cầu Tòa án giải quyết xin được trực tiếp nuôi con chung tên B sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019. Tuy nhiên việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng thì cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh có trong hồ sơ vụ án thể hiện chị L đang trực tiếp nuôi con chung, mặt khác con chung tên B sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị L, giao con chung tên B sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị L và anh T thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị L nhận nộp cả 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nên căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị L phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị L và anh T.

2. Về con chung: Giao con chung tên B sinh ngày 27 tháng 3 năm 2019 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007759 ngày 15 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về