Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 169/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 153/2021/QĐST- HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Vủ N, sinh năm 1976; nơi cư trú: Số 11x, tổ 0xx, ấp K, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, (có mặt);

2. Bị đơn: Bà Trần T, sinh năm 1988; nơi cư trú: Tổ 1x, ấp xx, xã C, huyện T, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Vủ N trình bày: Ông N và bà T chung sống với nhau từ năm 2013 có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh An Giang vào ngày 22/12/2014. Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, về sau thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng trong quan điểm sống, cuộc hôn nhân không có hạnh phúc do bà T có mối quan hệ bất chính với người đàn ông khác và đã ly thân từ tháng 4/2020 đến nay, ông N yêu cầu ly hôn với bà T; về con chung: Có 01 con chung tên Vủ H, sinh ngày 03/10/2014. Ông N yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng việc nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn bà Trần T: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, 02 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa theo trình tự tố tụng nhưng bà T không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Do đó, bà T đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc Tòa án giải quyết yêu cầu ly hôn giữa ông N và bà T.

* Ý kiến của cháu Vủ H có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với cha là ông Vủ N.

Tại phiên tòa, ông N vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bà T.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về thủ tục: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông N đối với bà T. Về con chung: Đối với cháu Vủ H, sinh ngày 03/10/2014 có nguyện vọng sống với ông N nên giao cháu H cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, bà T không cấp dưỡng nuôi con do ông N không yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết. Về án phí: Ông N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn bà T có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại tổ 18, ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[1.2] Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Bị đơn bà T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng bà T vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

[1.3] Về xác định tên của nguyên đơn: Theo đơn khởi kiện; giấy khai sinh con và chứng minh nhân dân nguyên đơn có họ, tên đầy đủ là Vủ Hoàng Thống N. Tại trích lục kết hôn (bản sao) nguyên đơn có họ, tên đầy đủ là Vủ Hoàng Thống Nhứt. Tại trích lục về việc cải chính tên (bản sao) số 239/TL.CC-HT ngày 03/11/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn, xác nhận từ Vủ Hoàng Thống Nhứt thành Vủ Hoàng Thống N. Do đó, có cơ sở xác định nguyên đơn tên Vủ Hoàng Thống Nhứt, Vủ Hoàng Thống N là một người.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông N và bà T chung sống với nhau vào năm 2014 trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh An Giang, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 165, ngày 22 tháng 12 năm 2014 được pháp luật thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, 56 và 57 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 để giải quyết.

Tại phiên tòa ông N xác định tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, ông N yêu cầu được ly hôn với bà T. Sau khi thụ lý Tòa án mở phiên hòa giải để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng giữa ông N và bà T, nhưng bà T không tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà T.

Tại biên bản xác minh ngày 18 tháng 5 năm 2021 được đại diện Văn phòng ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang cung cấp thông tin xác nhận bà T có đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà, hộ khẩu hiện nay của bà T vẫn còn đăng ký chủ hộ tại địa chỉ nêu trên. Không rõ vợ chồng ông N, bà T có mâu thuẫn gì hay không, nhưng cả hai đã không còn sống chung với nhau từ đầu năm 2020 đến nay.

Qua phần trình bày của ông N được biết bà T và ông luôn có những bất đồng trong cuộc sống hôn nhân bà T không vì gia đình chồng con, trong hôn nhân không có sự tôn trọng lẫn nhau, nên ông N không thể tiếp tục hàn gắn cuộc hôn nhân với bà T. Điều đó cho thấy tình trạng vợ chồng là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc ông N yêu cầu ly hôn với bà T là có căn cứ nên được chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Có 01 con chung tên Vủ H, sinh ngày 03/10/2014 hiện cháu đang học lớp 01 Trường tiểu học Lương Định Của, phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, hiện cháu đang sống chung với ông N. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cháu H cho ông N tiếp tục nuôi dưỡng và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu. Bà T không có nghĩa vụ cấp dưỡng cấp dưỡng nuôi con do ông N không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Theo ông N khai không có nhưng do chưa có ý kiến của bà T về vấn đề này, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Khi đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, ông N chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2019/0002872 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56 và 57 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận đơn yêu cầu xin ly hôn của ông Vủ N.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Vủ N được ly hôn với bà Trần T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 165, ngày 22 tháng 12 năm 2014 của Ủy ban nhân dân xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung: Ông Vủ N được tiếp tục nuôi cháu Vủ H, sinh ngày 03/10/2014, bà Trần T không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do ông N không yêu cầu. Ông N cùng các thành viên gia đình không được cản trở việc bà T thực hiện quyền thăm nom, giáo dục, chăm sóc con. Trên cơ sở lợi ích của con theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Các bên không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn ông N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2019/0002872 ngày 22 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.

[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

[6] Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về