Bản án về ly hôn; tranh chấp nuôi con số 416/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HOÀ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 416/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN; TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 605/2022/TLST- HNGĐ ngày 08/3/2022 về việc “Ly hôn; tranh chấp về nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 352/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 435/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: chị Cù Thị Hương G, sinh năm 1977 Địa chỉ: khu phố A, phường TP, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: anh Phan Thế A, sinh năm 1970.

Địa chỉ: khu phố A, phường TP, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Gg có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Thế A vắng tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện, bản tường trình nguyên đơn chị Cù Thị Hương G trình bày:

Chị và anh Phan Thế A tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 9, nơi đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, ngày đăng ký 28/7/1999. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc, nhưng về sau chị và anh Thế A phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng về quan điểm, cãi vã, xung đột, không tôn trọng lẫn nhau làm cho cuộc sống hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì không muốn gia đình đổ vỡ, đã nhiều lần vợ chồng ngồi lại để tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng đều không có kết quả. Chị nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Phan Thế A.

Về con chung: Có 02 con chung là Phan Hoàng L, sinh ngày 25/10/2000 và Phan Hoàng B, sinh ngày 26/10/2004. Khi ly hôn, cháu Hoàng L đã thành niên, đủ khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân nên chị không yêu cầu Toà án xem xét giải quyết; Đối với cháu Hoàng B chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và giáo dục, không yêu cầu anh Thế A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Do bận việc nên chị G có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải đoàn tụ và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị.

* Tại bản tự khai và Biên bản lấy lời khai cùng ngày 28/4/2022, bị đơn anh Phan Thế A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị G tự nguyện đăng ký kết hôn và đã được cấp Giấy chứng nhân kết hôn như chị G trình bày là đúng, nên hôn nhân giữa anh và chị G là hợp pháp. Tuy nhiên, việc chị G đưa ra lý do mâu thuẫn gia đình để ly hôn, anh không đồng ý. Anh nghi ngờ chị G có người thứ ba nên anh không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung là Phan Hoàng L, sinh ngày 25/10/2000 (đã thành niên) nên không yêu cầu Toà án xem xét và cháu Phan Hoàng B, sinh ngày 26/10/2004. Nếu ly hôn, anh đồng ý giao con theo nguyện vọng của con chung là cháu Hoàng B. Về cấp dưỡng nuôi con, tạm thời anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Hai bên tự thoả thuận.

Về nợ chung: Chị G khai không có nợ chung, anh không đồng ý vì hai vợ chồng có nợ chung, cụ thể: nợ bố là ông Phan Văn Q, sinh năm 1933; địa chỉ:

Tổ 5, Khu phố A, phường TP, BH, Đồng Nai số tiền 65 triệu đồng; nợ chị Phan Thị N, sinh năm 1960, địa chỉ: Ấp A, xã LN, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai số tiền 15 triệu đồng; nợ chị Phan Thị M, sinh năm 1966, địa chỉ: Ấp A, xã LN, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai số tiền 15 triệu đồng; nợ chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1967, địa chỉ: Thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh số tiền 08 triệu đồng, nợ chị Phan Thị Ph, sinh năm 1974, địa chỉ: Ấp A, xã TP, huyện VC, tỉnh Đồng Nai 06 chỉ vàng 95%. Anh đề nghị Toà án giải quyết phần nợ chung nêu trên.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm quyền, xác định tư cách đương sự và việc xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận các văn bản tố tụng, thời hạn chuẩn bị xét xử Toà án đã tuân thủ đúng theo quy định. Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Theo chị G, trong quá trình chung sống, vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, đồng thời do chồng không quan tâm đến cuộc sống chung của gia đình nên giữa hai người thường xuyên xảy ra xung đột, cãi nói lẫn nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, chị G nhiều lần tạo điều kiện hoà giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Nay chị G nhận thấy rằng mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, mâu thuẫn không thể chấm dứt và ngày càng trầm trọng hơn. Vì vậy, chị yêu cầu ly hôn với anh Phan Thế A. Đối với anh Thế A có đến làm việc, Toà án đã lấy lời khai nhưng anh Thế A không đồng ý ly hôn vì cho rằng chị G có người thứ ba, không quan tâm gia đình.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh Thế A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị G yêu cầu ly hôn với anh Thế A là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị G và anh Thế A có 02 con chung, cháu Phan Hoàng L, sinh ngày 25/10/2000 và cháu Phan Hoàng B, sinh ngày 26/10/2004. Hiện cháu L đã thành niên, có đủ khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Đối với cháu B, chị G có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B, tạm thời không yêu cầu anh Phan Thế A cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu B cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Do đó, cần tiếp tục giao cháu B cho chị G chăm sóc, nuôi dưỡng để ổn định cuộc sống cho cháu. Do chị G không yêu cầu nên tạm thời anh Thế A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: chị G và anh Thế A đồng ý tự thoả thuận.

Về nợ chung: chị G khai không có nợ chung, anh Thế A trình bày có nhưng Toà án đã yêu cầu anh Phan Thế A làm đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung, nợ chung nếu có và cung cấp các giấy tờ, tài liệu về nợ chung nhưng anh Thế A không cung cấp cho Toà án.

Về án phí: chị G phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Chị Cù Thị Hương G có đơn yêu cầu ly hôn, tranh chấp về việc nuôi con chung với anh Phan Thế A, địa chỉ thường trú: khu phố A, phường TP, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. Do đó, chị G được xác định là nguyên đơn, anh Thế A được xác định là bị đơn trong vụ án; quan hệ tranh chấp được xác định là “Ly hôn; tranh chấp về nuôi con”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà. Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định nhưng vắng mặt trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị G và anh Thế A kết hôn vào năm 1999, trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Sơn Bình, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 28/7/1999 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay chị G khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Thế A và được Tòa án thụ lý ngày 08/3/2022 nên áp dụng thủ tục theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết ly hôn.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Theo nguyên đơn trình bày, trong quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc nhưng về sau phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hoà hợp, chồng không quan tâm đến cuộc sống chung của gia đình nên giữa hai người thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị G nhiều lần tạo điều kiện hoà giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành (bút lục: 01, 23, 24, 25, 37-38). Về phía bị đơn, Toà án đã triệu tập làm việc, bị đơn tự khai và Toà án tiến hành lấy lời khai của bị đơn thể hiện, bị đơn không đồng ý ly hôn vì cho rằng nguyên đơn có người thứ ba chứ không phải mâu thuẫn như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, Toà án tiến hành triệu tập hợp lệ các đương sự để hoà giải đoàn tụ nhưng bị đơn vắng mặt, chứng tỏ bị đơn bỏ mặc, không quan tâm đến sự hàn gắn trong hôn nhân. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị G và anh Thế A là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân giữa hai người không đạt được nên chị G khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Thế A là có căn cứ chấp nhận.

[2.2]. Về con chung: 02 con chung, cháu Phan Hoàng L, sinh ngày 25/10/2000 và cháu Phan Hoàng B, sinh ngày 26/10/2004. Hiện cháu L đã thành niên, có đủ khả năng lao động nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Toà án giải quyết. Đối với cháu B, chị G có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu B, tạm thời không yêu cầu anh Phan Thế A cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu B cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ. Anh Thế A cũng có ý kiến, nếu ly hôn, anh đồng ý giao con theo nguyện vọng của con chung là cháu Hoàng B. Do đó, cần giao cháu B cho chị G chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục để ổn định cuộc sống cho cháu. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị G không yêu cầu nên tạm thời anh Thế A không phải cấp dưỡng nuôi con.

[2.3]. Về tài sản chung: Chị G và anh Thế A đồng ý tự thoả thuận, nên không đặt ra xem xét.

[2.4]. Về nợ chung: Nguyên đơn khai không có nợ chung. Đối với bị đơn, tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai, anh Thế A có đề cập đến vấn đề nợ chung, yêu cầu Toà án giải quyết nợ chung. Tuy nhiên, Toà án đã trực tiếp làm việc và yêu cầu bị đơn làm thủ tục khởi kiện phản tố, cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến nợ chung để Toà án tiến hành thụ lý giải quyết theo quy định nhưng bị đơn không thực hiện nên không có căn cứ xem xét.

[3]. Về án phí: Chị G phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

[4]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố Biên Hoà phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 238, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Cù Thị Hương G.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Cù Thị Hương G được ly hôn với anh Phan Thế A.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Phan Hoàng B, sinh ngày 26/10/2004 cho chị Cù Thị Hương G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tạm thời, chị G không yêu cầu anh Phan Thế A cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc con chung. Vì quyền lợi của con chung, các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Không giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí: Chị Cù Thị Hương G phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị G đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001665 ngày 07/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà. Chị G đã nộp đủ án phí.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn; tranh chấp nuôi con số 416/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:416/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về