Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 37/2021/HNST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỚN QUẢN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 37/2021/HNST NGÀY 06/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 06 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 21/2021/TLST- HNGĐ ngày 21/01/2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1986

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1977 Cùng địa chỉ: tổ 11, khu phố 7, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước.

(Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn L có tự nguyện tìm hiểu và chung sống cùng nhau vào năm 2002, vợ chồng có đăng ký kết hôn Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng chung sống đến năm 2002 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh L thường xuyên ăn nhậu, không có trách nhiệm đối với vợ con và gia đình, chị T đã nhiều lần bỏ qua nhưng anh L vẫn không chịu thay đổi. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống căng thẳng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện vợ chồng đã không còn chung sống cùng nhau được thời gian dài nên chị Vũ Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Vũ Tuyết N, sinh ngày 02/5/2003, Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/5/2008 và Nguyễn Cao B, sinh ngày 05/6/2019. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung Nguyễn Vũ Tuyết N và Nguyễn Cao B, giao con chung Nguyễn Thanh T cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng, không ai cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn Nguyễn Văn L: Sau khi tòa án thụ lý đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh L không có ý kiến, cũng không đến Tòa án theo giấy triệu tập nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh L.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: Thẩm phán đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về việc thu thập chứng cứ, giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử mở phiên toà. Tại phiên toà hôm nay, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, thành phần các đương sự tham gia vụ án và phiên tòa đúng quy định.

Kiến nghị: Không có.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị T, cho chị Vũ Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn L; giao 02 con chung Nguyễn Vũ Tuyết N, Nguyễn Cao B cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thanh T cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản và nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về tố tụng:

Trong vụ án này, chị Vũ Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh Nguyễn Văn L, anh L hiện cư trú tại thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước.

Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên chị T yêu cầu được xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục đưa vụ án ra xét xử.

Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn L sau thời gian tìm hiểu thì chung sống cùng nhau năm 2002, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã T (nay là thị trấn T), huyện H vào năm 2007 theo quy định, do đó quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh L là hợp pháp. Vợ chồng chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L thường xuyên ăn nhậu, không lo làm ăn, không có trách nhiệm với vợ con, chị T đã tạo điều kiện để anh L sửa đổi bản thân nhưng anh L không thay đổi. Cuộc sống vợ chồng hiện không có hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh L.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh L lên để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị T, tuy nhiên theo biên bản xác minh tại khu phố ngày 25/02/2021 thì trưởng khu phố cho biết trong quá trình chung sống chị T, anh L thường xuyên cãi vã, anh L ăn nhậu và thường xuyên đánh bài. Tòa án cũng tạo điều kiện để tiến hành hòa giải giữa các bên nhưng anh L đều vắng mặt, cũng không văn bản thể hiện ý được ý chí muốn đoàn tụ với chị T. Do tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho các bên Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T, cho chị T được ly hôn với anh L.

Về con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Vũ Tuyết N, sinh ngày 02/5/2003, Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/5/2008 và Nguyễn Cao B, sinh ngày 05/6/2019. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung Nguyễn Vũ Tuyết N và Nguyễn Cao B, giao con chung Nguyễn Thanh T cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng.

Theo bản tự khai ngày 23/3/2021 cháu Nguyễn Vũ Tuyết N có nguyện vọng được ở với mẹ, cháu Nguyễn Cao B hiện chưa đủ 36 tháng tuổi, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Nguyễn Vũ Tuyết N, Nguyễn Cao B trực tiếp nuôi dưỡng.

Đối với cháu Nguyễn Thanh T: Anh L không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện cua chị T và cũng không thể hiện nguyện vọng đối với việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thanh T, tuy nhiên hiện nay cháu Tùng đang trực tiếp chung sống với anh L, đồng thời tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 01/3/2021 cháu Tùng thể hiện có nguyện vọng được ở với ba. Do đó, để đảm bảo quyền lợi đối với con chưa thành niên, Hội đồng xét xử giao con chung Nguyễn Thanh T cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết không xem xét.

Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Về ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn L, giao con chung giao 02 con chung Nguyễn Vũ Tuyết N, Nguyễn Cao B cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thanh T cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản và nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xem xét là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, 56, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 133 ngày 12/9/2007 của Ủy ban nhân dân xã T (nay là thị trấn T), huyện H, tỉnh Bình Phước).

- Về con chung: Giao 02 con chung Nguyễn Vũ Tuyết N, sinh ngày 02/5/2003, Nguyễn Cao B, sinh ngày 05/6/2019 cho chị Vũ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thanh T, sinh ngày 14/5/2008 cho anh Nguyễn Văn L trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Đương sự tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

-Về nợ chung: Đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 023504 ngày 21/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Bình Phước.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

418
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 37/2021/HNST

Số hiệu:37/2021/HNST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về