Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con 106/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 106/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 270/2022/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 về việc “ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 172/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 156/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà B.T.N, sinh năm 1974;

Địa chỉ: ấp P, xã A, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

* Bị đơn: Ông P.V.L, sinh năm 1969;

Địa chỉ: ấp P, xã A, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

(Nguyên đơn bà N có mặt, bị đơn ông L vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà B.T.N trình bày như sau: Bà và ông P.V.L tự tìm hiểu và quen biết, đi đến chung sống với nhau vào năm 1989, có tổ chức đám cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do ông L cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Thời gian qua, bà cũng đã cố gắng tha thứ nhiều lần để duy trì cuộc hôn nhân nhưng không có kết quả và hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 tới nay. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông P.V.L; Về con chung: Vợ chồng ông bà có 03 con chung tên là P.T.H.C, sinh năm 1990, P.T.H.E, sinh năm 1992 và Phạm Văn Liền, sinh ngày 12/03/1997, hiện tại đã trưởng thành và có khả năng lao động; Về tài sản chung: ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần triệu tập hợp lệ ông L đến để tiến hành hòa giải và triệu tập tham gia phiên toà nhưng ông L vắng mặt không có lý do và không cung cấp lời khai.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và của người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên đã từ bỏ quyền của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 9, 14, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tuyên. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà N và ông L. Về con chung: đã trưởng thành nên không xem xét; Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Bà N yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và ý kiến phát biểu của kiểm sát viên, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Ông P.V.L (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông L.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Bà N và ông L chung sống với nhau từ năm 1989 nhưng đến nay vẫn không tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nay do mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông L. Do hôn nhân giữa bà N và ông L vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình về đăng ký kết hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét mâu thuẫn trong hôn nhân mà căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà N và ông L.

[2] Về con chung: Trong quá trình chung sống, giữa bà N và ông L có 03 con chung tên P.T.H.C, sinh năm 1990, P.T.H.E, sinh năm 1992 và Phạm Văn Liền, sinh ngày 12/03/1997, hiện tại đã trưởng thành và có khả năng lao động. Hiện nay, các con chung của bà N và ông L đã trưởng thành và có khả năng lao động nên HĐXX không xem xét.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Bà N không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa bà N và ông L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí bà N đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 9, 14, 53, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

* Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà B.T.N và ông P.V.L.

* Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa bà N và ông L có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

* Về án phí sơ thẩm: Bà B.T.N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009177 ngày 09 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Bà N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

303
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con 106/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:106/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về