Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BN ÁN 40/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 35/2021/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: ChHồ Thị Tú L, sinh năm 1996;

Đa chỉ: Ấp TH, xã TP, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Anh Tạ Hoàng Ng, sinh năm 1994;

Địa chỉ: Ấp TH, xã TP, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

(Chị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Ng vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải, nguyên đơn chị Hồ Thị Tú L trình bày:

Chị và anh Tạ Hoàng Ng là vợ chồng theo Giấy chứng nhận kết hôn 28 do Ủy ban nhân dân xã ĐH, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 18/4/2017. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc cho đến đầu năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng có nhiều xung đột, thường xuyên cự cãi dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay. Hiện tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu xin ly hôn với anh Tạ Hoàng Ng.

Về con chung: Chị và anh Ng có 01 con chung tên Tạ Thị Mộng T, sinh ngày 21/5/2015. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Tạ Hoàng Ng không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn, không tham gia phiên hòa giải đoàn tụ.

* Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn chị Hồ Thị Tú L vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn anh Tạ Hoàng Ng vắng mặt không lý do.

- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa xác định: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự chưa phát hiện vi phạm nên không kiến nghị gì. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra cũng như tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Hồ Thị Tú L là nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị L.

Anh Tạ Hoàng Ng là bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Ng.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Hồ Thị Tú L giao nộp 01 giấy chứng nhận kết hôn số 28 ngày 18/4/2017 của Ủy ban nhân dân xã ĐH, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang nên Hội đồng xét xử xác định giữa chị Hồ Thị Tú L và anh Tạ Hoàng Ng chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Theo đơn khởi kiện, chị L xác định giữa chị và anh Ng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên tranh cãi, đã ly thân với nhau từ đầu năm 2020 cho đến nay nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ng.

Anh Ng không có văn bản phản đối yêu cầu ly hôn của chị L, không tham gia phiên hòa giải đoàn tụ và vắng mặt tại phiên tòa chứng tỏ nên Hội đồng xét xử có căn cứ xác định anh Ng không còn quan tâm đến tình trạng hôn nhân với chị L và lời trình bày chị L về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là có căn cứ.

Thy rằng: Tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh Ng là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Hồ Thị Tú L được ly hôn với anh Tạ Hoàng Ng là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và Gia đình.

[3]. Về con chung:

- Anh Tạ Hoàng Ng và chị Hồ Thị Tú L có 01 người con chung tên Tạ Thị Mộng T, sinh ngày 21/5/2015.

- Chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị L trình bày thì chị có việc làm ổn định, đủ điều kiện nuôi cháu T. Anh Ng không có văn bản thể hiện ý kiến về việc nuôi con. Để đảm bảo việc chăm sóc và nuôi dưỡng cháu T, Hội đồng xét xử nghĩ nên tiếp tục giao cháu T cho chị L nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

- Nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Chị L không yêu cầu anh Ng cấp dưỡng cho con, đây là sự tự nguyện của chị L phù hợp với qui định của pháp luật nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị L không yêu cầu giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6]. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

* Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Đim a, b khoản 2 Điều 227; Khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Xử:

1. Chấp nhận cho chị Hồ Thị Tú L được ly hôn với anh Tạ Hoàng Ng.

2. Con chung:

Tiếp tục giao 01 con chung tên Tạ Thị Mộng T, sinh ngày 21/5/2015 cho chị Hồ Thị Tú L trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Tạ Hoàng Ng không phải cấp dưỡng cho con vì chị L không yêu cầu. Anh Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về án phí:

Chị Hồ Thị Tú L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006784 ngày 28/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cai Lậy nên chị Lin không phải nộp tiếp tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Hồ Thị Tú L và anh Tạ Hoàng Ng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 40/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về